Cynara scolymus L., thuộc họ Cúc Asteraceae
Hoa actisô có 3-3,15% protein; 0,1-0,3% lipid; 11-15,5% glucid; 82% nước. Trong 100 gam gồm: 300UI vitamin A; 120 gama vitamin B1; 30 gama vitamin B2; 10 mg vitamin C; 50-70 calo.
Actisô là cây thuốc quý đối với các rối loạn và các bệnh có nguồn gốc gan (vàng da, sỏi mật, nhiễm độc ruột...); giảm niệu (nhiễm trùng, nhiễm độc...).
Bông actisô được chỉ định dùng trong trường hợp suy nhược, lao lực, sung huyết và thiểu năng gan, thỉểu năng thận, giảm niệu, bệnh sỏi, thấp khớp, thống phong, nhiễm độc, nhiễm khuẩn đường ruột.
Bông actisô nấu chín có tác dụng bổ gan, lọc máu, bổ tim, chống độc, lợi tiểu (làm tăng sự bài tiết urê, cholesterol dư thừa và acid uric)
Cây actisô non nấu chín dùng trị bệnh ** chảy mạn tính.
Rễ actisô có tác dụng lợi tiểu, được dùng trong trường hợp thấp khớp, thống phong, thuỷ thũng, vàng da.
Lá: làm thuốc dạng bột: cao actisô, trà actisô; viên: Cynaraphytol; cao atisô, thuốc nước: Actisamin, Cynaraphytol...
BầU
(Tên khác:Bầu canh, bầu nậm) - Lagenaria siceraria (Molina) Standl., thuộc họ Bầu bí - Cucurbitaceae
Trong 100 g quả tươi có 0,6g protein; 2,9g glucid canxi; 25g P; 0,2g Fe; 0,02mg caroten; 0,02mg vitamin B1; 0,03mg vitamin B2; 0,4mg vitamin PP; 12mg vitamin C; 14 calo.
Thịt quả bầu có vị ngọt, tính hàn, có tác dụng giải nhiệt, trừ độc, dùng d8ể chữa *** rắt, phù nề, *** tháo, mụn lở...
Lá bầu có vị ngọt, tính bình.
Tua cuốn và hoa bầu có tác dụng giải thai độc, nấu tắm cho trẻ em phòng ngừa đậu sởi, lở ngứa.
Hạt bầu dùng chữa lợi răng sưng đau, răng lung lay, tụt lợi. Dùng chung với Ngưu tất, mỗi vị 20g, nấu lấy nước ngậm và súc miệng ngày 3-4 lần.
BÍ ĐAO
(Tên khác: bí phấn, bí xanh) - Benincasa hispida (Thunb.) Cogn., thuộc họ bầu bí - Cucurbitaceae
100 g bí đao tươi có: 67,9% nước; 0,4% protein; 0,1% lipid; 0,7% cellulose; 0,4% khoáng: 26mg Ca, 23mg P; 0,3mg Fe; 0,01mg caroten; 0,01mg vitamin B1; 0,02mg vitamin B2, 0,03mg vitamin PP; 16mg vitamin C; 12 calo.
Tên thuốc của Bí đao là Đông qua.
Vỏ bí đao sắc đặc uống lợi tiểu, chữa bệnh *** rắt do bàng quang nhiệt hoặc *** đục ra chất nhầy.
Bí đao nấu canh cá chép cùng với hành củ chữa phù thũng.
Hạt bí đao dùng chữa ho.
Lá bí đao giã nát trộn với giấm, đáp trị các cầu ngón tay sưng đau.
BÍ NGÔ (BÍ Rợ)
Cucurbita maxima Duch.; Bí đỏ - Cucurbita pepo L.; ,Bí đỏ thơm- Cucurbita moshata Duch., thuộc họ bầu bí - Cucurbitaceae;
Quả: nước: 75,2%; 1,6% protein; 0,9% lipid; 1,9% cellulose; các vitamin B; C, PP, tiền sinh tố A; một số acid amin; khoáng. Trong 100g có 33 calo.
Dây lá: nước: 86,6%; 3,8% protein; 1,8% lipid; 1,9% cellulose; các vitamin B; C, PP, tiền sinh tố A; một số acid amin; khoáng.
Bí đỏ là thức ăn bổ dưỡng, giải nhiệt, trị ho, nhuận tràng, lợi tiểu. Được chỉ định dùng trong trường hợp bị viêm đường tiết niệu, trĩ, viêm mật, kiết lỵ, mất ngủ, suy nhược, suy thận, khó tiêu, táo bón, *** đường các bệnh về tim.
Quả tươi được giã, lọc lấy nước uống hàng ngày vào sáng sớm cho nhuận tràng, hoặc nấu xúp để ăn. Đắp trị bỏng và trị các chứng viêm, áp xe, hoại thư lão suy. Chè bí đỏ nấu với đậu đỏ, đậu đen, lạc, nếp là món ăn trị đau đầu, mất ngủ, suy ngược thần kinh, đau màng óc, viêm màng não...
Hạt bí đỏ thường dùng rang ăn, có tác dụng tẩy giun sán. Hạt bí đỏ phối hợp cùng vỏ rễ lựu và hạt cau già làm thuốc tẩy sán sơ mít. Hạt bí nấu có tác dụng giải nhiệt, trị mất ngủ, đau do viêm đường tiết niệu.
Cuống quả bí đỏ đem phơi khô tán bột uống giải độc do ngô độc thịt, cá.
CÀ CHUA
Lycopersicum esculentum Mill., thuộc họ Cà - Solanaceae
Trong 100g cà chua có: 90g nước; glucid: 4g; protit: 0,9g; lipid: 0,3g; các axit hữu cơ (malic, acetic, citric...), muối khoáng (ca, P, Mg,K, S); các nguyên tố vi lượng (Zn, Cu, Fe, B, I...) và các vitamin (A, B1, B2, B6, C, PP, E, K).
Hàng ngày100gam cà chua tươi có thể cung cấp: 13% Vvitamin A, 5% acid bolic, 8% vitamin B, 33% vitaminC, năng lượng 22calo.
Cà chua có tác dụng ngừa ung thư
Hiện nay trên thế giới các công trình nghiên cứu của nhiều nước đã có nhiều thí nghiệm chứng tỏ cà chua có tác dụng tốt trong việc chữa trị một số bệnh ung thư. Một nghiên cứu của các nhà khoa học Israen cho biết: trong cà chua có một chất gọi là lycopin, có tác dụng ngăn ngừa những tế bào ung thư vú phát triển. Còn các nhà khoa học Nhật Bản thì cho biết nếu mỗi ngày ăn một quả cà chua thì sẽ giảm 50% nguy cơ bị ung thư phổi. Và những người nghiện thuốc lá nên ăn nhiều cà chua để ngăn ngừa căn bệnh này.
CÀ RốT GIảM NGUY CƠ UNG THƯ BUồNG TRứNG VÀ VIÊN GAN B
Các nhà khoa học thuộc trường đại học Harvard (Mỹ) vừa công bố một công trình nghiên cứu cho thấy những phụ nữ ăn nhiều cà rốt có thể giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng. Trong cuộc nghiên cứu, các nha khoa học đã phỏng vấn 3.000 phụ nữ về chế độ ăn hàng ngày của họ. Kết quả thật bất ngờ, những phụ nữ ăn trung bình 2 củ cà rốt mỗi tuần sẽ giảm 50% nguy cơ mắc bệnh ung thư buồng trứng. Ngoài ra, cà rốt còn chứa nhiều vitamin A và rất giàu chất dinh dưỡng.
Mới đây, người Mỹ đã sản xuất thành công một loại thực phẩm có tác dụng phòng chống bệnh viêm gan B - một căn bệnh rất nguy hiểm, có tới 350 triệu người trên thế giới bị nhiễm phải. Họ đã tiến hành gieo trồng loại cà rốt biến đổi gen có chứa một loại vaccin chống bệnh viêm gan B. Hiện giờ vaccin phòng chống bệnh viêm gan B vẫn còn quá đắt nên có thể coi đây là một bước đột phá mới trong việc phòng chống căn bệnh nguy hiểm này. Cà rốt là loại cây thích hợp nhất để mang lại vaccin chống viêm gan B bởi tính dễ thích nghi khi trồng cũng như bảo quản và vaccin này không bị phân huỷ trong quá trình chế biến thức ăn.
ÐU Đủ VÀ THAI NGHÉN - Sự THậT HAY TRUYềN THUYếT?
Y học cổ truyền đã từng có nhiều kinh nghiệm về các bài thuốc từ thảo mộc được áp dụng từ thế hệ này sang thế hệ khác, chẳng hạn như cam thảo, cây thanh hao hoa vàng (qing hao su)... được xác nhận là có tác dụng chữa một số bệnh.
Một trong những niềm tin tồn tại không chỉ ở Việt Nam mà cả ở nhiều nước châu Á khác, đó là mối liên hệ giữa quả đu đủ và thai nghén. Hầu như các phụ nữ nông thôn ở nước ta trong thời gian thai nghén đều được thế hệ đi trước dặn dò nên tránh ăn đu đủ xanh (non) vì có thể gây sẩy thai! Xin giới thiệu cùng bạn đọc một số vấn đề có liên quan giữa đu đủ và thai nghén.
Ðặc điểm sinh học của quả đu đủ
Quả đu đủ có tên khoa học là Carica Papaya Linn. Ðu đủ (papaya) thuộc họ nhỏ Caricaceae có hai giống; họ Caricaceae, thường xếp chung vào họ Passifloraceae, người ta còn gọi Papaya theo tiếng Anh là Paw-paw.
Ðu đủ là một loại quả nhiệt đới, được trồng nhiều ở các nước Nam Mỹ, châu Phi, Ấn Ðộ, Ðông Nam Á. Các nước có sản lượng thu hoạch đu đủ cao nhất thế giới là Brazil, kế đến là Nigeria, Ấn Ðộ... Quả đu đủ chín dùng để ăn, trái xanh để làm gỏi, nấu canh...
Giá trị dinh dưỡng của đu đủ trong 100g chất quả:
Nước

Năng lượng (Calories).......... 43
Protein

Chất mỡ

Carbohydrates

Sợi

Vitamin A............................. 48
Vitamin B1.......................... 3.6
Vitamin B2.......................... 8.1
Niacin.................................. 2.2
Vitamic C.............................. 80
Calcium................................ 2.4
Phosphorus.......................... 1.6
Sắt.......................................... 3
Natri .......................................
Kali .........................................
* RDI. (Recommended Daily Intake): nhu cầu tiêu thụ trong một ngày do FDA Mỹ đề xuất, thiết lập dựa trên nhu cầu trung bình của một nam giới, cân nặng 70kg, mức năng lượng tiêu thụ 2.700kcal/ngày.
Như vậy về mặt dinh dưỡng, đu đủ là loại trái cây có đủ sắt (Fe) và Calcium, khá giàu Vitamin A, B, G và rất giàu Vitamin C.
Tuy là một loại trái cây có giá trị dinh dưỡng khá cao, nhưng theo kinh nghiệm dân gian đu đủ được xếp vào nhóm thức ăn tự nhiên "không lành" và có tác dụng của một dược chất.
Kinh nghiệm về cách dùng đu đủ trong dân gian và ứng dụng trong công nghệ:
1. Mủ và nhựa đu đủ có thể gây viêm da.
2. Ở Trung Mỹ, trong dân gian, người ta sử dụng đu đủ để điều trị bệnh lỵ amip (Entamoeba histolytica), một loại ký sinh trùng gây tiêu chảy dạng lỵ và biến chứng áp- xe gan.
3. Ở Samoa, người dân dùng phần dưới vỏ thân cây đu đủ để chữa chứng nhức răng.
4. Nhựa đu đủ có chứa papain, là một trong hai loại men tiêu hủy protein (proteolytic enzymes) có tác dụng làm mềm thịt bắp. Chính do tác dụng này, khi dùng đu đủ hầm chung với thịt, thịt sẽ mềm hơn. Người dân vùng Ca-ri-bê, Trung Mỹ cho biết họ có thể dùng khẩu phần với số lượng lớn thịt cá nhưng vẫn không hề gì nếu ăn đu đủ xanh sau đó.
5. Phần cơm đu đủ là thành phần chính của các loại mỹ phẩm như kem nền (mặt), kem đánh răng, xà bông gội đầu.
6. Các ứng dụng quan trọng trong y học của nhựa đu đủ là chiết xuất papain để dùng trong phẫu thuật cột sống (là một loại "dao phẫu thuật tự nhiên" để mở đĩa đệm). Nghiên cứu cho thấy chiết xuất papain có hoạt tính kháng sinh (antibiotic activity) với tác dụng chống vi khuẩn gram dương (gram-positive bacteria). Nó còn được dùng để điều trị lở loét; làm tiêu giả mạc trong bệnh bạch hầu; chống kết dính sau phẫu thuật; làm thuốc giúp tiêu hóa. Trong công nghiệp, papain được dùng để tinh chế bia; xử lý len và lụa trước khi nhuộm; là phụ gia trong công nghệ chế biến cao su; khi tinh chế dầu gan cá tuna, người ta tiêm papain vào gan trước khi chiết xuất, làm cho thành phẩm giàu Vitamin A và D hơn. Khoảng 1.500 quả đu đủ xanh cỡ vừa cho được khoảng 650g papain.
Niềm tin về ảnh hưởng của đu đủ đối với sinh sản và thai nghén
Tác hại được cho là nguy hiểm nhất của đu đủ mà kinh nghiệm dân gian của nhiều nước đã đúc kết, đó là mối liên quan giữa đu đủ xanh với sinh sản và thai nghén.
Từ lâu đời, người Ấn Ðộ đã sử dụng đu đủ xanh cũng như hạt đu đủ để tránh thai, và không chỉ dùng ở phụ nữ mà còn cho cả nam giới. Nhiều phụ nữ châu Phi, châu Á và Mỹ đã sử dụng đu đủ như một loại thuốc tránh thai bằng cách ăn trong ngày có quan hệ tình dục.
Ở Ấn Ðộ đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về thái độ và hành vi (attitude and behaviour) ăn uống trong thai nghén, khi phỏng vấn các đối tượng, đu đủ là thành phần được nhắc đến rất nhiều. Một nghiên cứu khi tiến hành phỏng vấn 1.106 phụ nữ có thai và cho con bú ở 44 làng tại hai huyện Mahabubnagar và Andhra Pradesh vào những năm 70, 72% cho biết họ tin rằng đu đủ là thức ăn "nóng", có hại cho thai nghén. Các nghiên cứu tương tự khác trên số đông phụ nữ (từ 500 - 1200) cho thấy đu đủ có tác động gây sẩy thai, 35% phụ nữ tránh không ăn đu đủ trong thời kỳ thai nghén. Ở Ấn Ðộ, muốn gây sẩy thai, người ta cho người phụ nữ đã đậu thai ăn đu đủ non hoặc dùng rễ cây đu đủ nghiền nát, thêm ít muối và cho uống.
Bằng chứng khoa học về mối liên quan giữa đu đủ với sinh sản và thai nghén:
Trong vòng 40 năm qua đã có trên dưới 200 bài báo khoa học đề cập đến tác dụng y học của cây đu đủ trên nhiều lĩnh vực, trong số đó có khoảng vài chục bài liên quan đến tác động của đu đủ đối với sinh sản và thai nghén. Những nghiên cứu về đu đủ hầu hết được tiến hành trên động vật thực nghiệm.
Tác dụng tránh thai của trái đu đủ
Một điều ngạc nhiên là trái đu đủ không chỉ có tác dụng phòng tránh thai ở phụ nữ mà còn cả trên nam giới.
Năm 1993, một nhóm các nhà khoa học Anh thuộc Viện Ðại học Sussex đã chứng minh papain có tác dụng làm ngăn cản quá trình thụ thai ở phụ nữ. Qua kết quả nghiên cứu, họ đưa ra hai thuyết về tác dụng ngừa thai của quả đu đủ: 1/ Chất papain trong đu đủ có tác dụng ức chế hormone progesterone và làm ngăn cản quá trình thụ thai; 2/ Chính tác dụng làm mềm thịt của papain có thể phá hủy màng tế bào phôi thai. Ở Sri Lanka, các phụ nữ tránh thai bằng cách đơn giản là ăn đu đủ hàng ngày, và khi muốn đậu thai thì chỉ việc dừng ăn đu đủ!
Kinh nghiệm dân gian ở một số nước châu Á cho thấy, không chỉ ở phụ nữ, mà cả nam giới nếu ăn đu đủ trong một thời gian dài cũng có khả năng tránh thai. Các nghiên cứu trên động vật thực nghiệm cũng cho các kết quả lý thú. Hạt đu đủ đã được chứng minh là có hiệu quả tránh thai trên nam giới. Nghiên cứu thực nghiệm trên chuột và thỏ cho thấy các phần chiết xuất từ chloroform có trong hạt đu đủ có tác dụng tránh thụ thai có thể hồi phục được trên chuột và thỏ đực mà không có độc tính. Thử nghiệm trên các chất chiết xuất từ hạt đu đủ, cho thấy chúng có khả năng ức chế sự di chuyển của tinh trùng trên chuột và giảm sinh tinh trùng trên thỏ. Nghiên cứu gần đây nhất tiến hành theo cùng cách thức với các thí nghiệm trên ở loài khỉ langur, cho thấy hiệu quả làm giảm sinh tinh trùng xuất hiện sau điều trị 90 ngày và khả năng ngừa sinh xuất hiện sau điều trị 30-60 ngày mà không có tác dụng độc tính. Chức năng sinh tinh trùng được phục hồi hoàn toàn sau khi ngừng dùng thuốc 150 ngày. Tuy nhiên cơ chế hoạt động của các chất chiết xuất từ hạt đu đủ vẫn còn chưa nhất quán. Các nghiên cứu trước đây cho thấy có lẽ các tác động này là do tương tác của các hoạt chất lên nguồn estrogen, androgen và antiandrogen. Nhưng trong nghiên cứu sau này trên loài khỉ nêu trên, người ta thấy số lượng tế bào tinh trùng bất thường đếm được tăng lên cũng như bị bất động hoàn toàn ngay trong giai đoạn đầu điều trị, và như thế có khả năng tác động vào môi trường bên trong của thừng tinh hoặc vào trong giai đoạn tế bào mầm của tinh trùng trong tinh hoàn. Nghiên cứu sâu hơn nữa, các tác giả quan sát thấy tổn thương xảy ra ở tế bào Sertolli (là một tế bào sinh tinh trùng) và tình trạng giảm thiểu tinh trùng có thể là do tác động chọn lọc của thuốc lên sự phát triển của tế bào mầm, có lẽ qua trung gian là các tế bào Sertolli, gây nên tình trạng ức chế hoạt động của các ti lạp thể, có thể ảnh hưởng đến chuỗi hô hấp tế bào gây độc tế bào trong quá trình tăng sinh tế bào mầm. Ðây là một kết quả quan trọng hứa hẹn cho ra đời một loại thuốc tránh thai tạm thời cho nam giới. Các nhà khoa học ở New Dehli cho biết đang chuẩn bị tiến hành thử nghiệm thuốc trên những người tình nguyện.
Ðu đủ non có khả năng gây sẩy thai?
Qua một nghiên cứu trên chuột ở Ấn Ðộ, người ta cho chuột đang mang thai ăn tự do các loại trái cây khác nhau, kết quả cho thấy trái đu đủ non có tác dụng ngăn cản chu kỳ động dục và gây sẩy thai. Mức độ sẩy thai sẽ giảm xuống khi cho chuột ăn đu đủ chín. Một nghiên cứu khác về tác dụng trên trương lực tử cung, người ta đã thử nghiệm chất chiết xuất từ nhựa đu đủ (papaya latex extract, PLE) trên tử cung thực nghiệm chuột ở các chu kỳ động dục và thai nghén khác nhau. Kết quả cho thấy tác động của PLE gây co thắt tử cung xảy ra mạnh nhất là ở các giai đoạn sau của thai kỳ, tương ứng với kỳ estrogen đạt được nồng độ cao nhất. Nghiên cứu này cũng rút ra được kết luận là tác động gây co thắt tử cung của PLE là một tác động phối hợp của các enzyme, alkaloid và các chất khác, hoạt động chủ yếu vào quần thể thụ thể alpha adrenergic của tử cung ở các giai đoạn khác nhau. Một nghiên cứu gần đây nhất cũng trên chuột (loài Sprague-Dawley) ở 4 giai đoạn thai nghén khác nhau, nhóm chứng chỉ dùng nước. Kết quả cho thấy nếu sử dụng nước trái đu đủ chín, thì các nhóm nghiên cứu không có gì khác biệt so với nhóm chứng về ảnh hưởng co thắt cơ trơn tử cung được biệt lập từ chuột có thai và không có thai. Ngược lại, với nhựa đu đủ sống sử dụng ở nồng độ 0,1-3,2mg/ml sẽ gây ra hiện tượng co thắt cơ tử cung, giống như hiện tượng co thắt của oxytocin, một loại thuốc gây co thắt tử cung, dùng để dục sinh trong sản khoa ở nồng độ 1-64mU/ml và prostaglandin F (2 alpha) 0,028-1,81microm. Ðối với cơ trơn tử cung biệt lập thì đáp ứng co thắt cơ xảy ra đối với nhựa đu đủ sống (PLE) ở nồng độ 0,2mg/ml, tương đương với 0,23microm prostaglandin F (2 alpha) và 32mU oxytocin/ml. Trên chuột có thai 18-19 ngày thì có hiện tượng co thắt như uốn ván. Từ kết quả của nghiên cứu này, có thể rút ra rằng: Nếu tiêu thụ đu đủ chín ở mức độ bình thường thì không gây hại gì trên chuột có thai, nhưng ngược lại với loại đu đủ sống hoặc gần chín (loại còn chứa nhiều nhựa) có thể không an toàn cho thai nghén.
Như vậy đu đủ xanh được xem là có tác dụng phòng tránh thai tạm thời trên nữ giới, đặc biệt là ở nam giới, nghiên cứu đang đi đến giai đoạn sau cùng trước khi đưa ra áp dụng rộng rãi. Trong khi đó, trên thực nghiệm ở động vật, nhựa đu đủ xanh cũng đã được chứng minh là không an toàn cho thai nghén và có khả năng gây sẩy thai, vì vậy đối với con người, có lẽ an toàn nhất là nên tránh sử dụng đu đủ xanh, đu đủ gần chín trong thời kỳ mang thai như kinh nghiệm dân gian từ bao nhiêu thế kỷ.
DƯA HấU - Vị THUốC THANH NHIệT, TIÊU KHÁT
Trong trường hợp bị sốt cao ra mồ hôi do cảm nắng, trúng nóng, việc dùng nước ép thịt quả dưa hấu làm thuốc uống sẽ giúp mau khỏi. Những người say rượu nếu cho uống nước ép thịt quả dưa hấu, hoặc ăn mấy miếng dưa là giã rượu ngay.
Dưa hấu vị ngọt nhạt, khí hàn, không độc, có tác dụng thanh giải nóng nực, lợi tiểu, giải độc cho người viêm thận, phù thũng, chữa huyết áp cao, say rượu và hoàng đản. Hải Thượng Lãn Ông trong cuốn Lĩnh Nam bản thảo có viết:
"Tây qua tục gọi là dưa hấu
Ngọt nhạt, lạnh mát ăn rất ngon
Giải khát, tiêu phiền, trừ trúng nóng
Hồng lỵ, lâm tê bệnh chẳng còn".
Hầu như mọi bộ phận của quả dưa hấu (vỏ dưa, cùi dưa...) đều có thể làm thuốc chữa bệnh. Lớp vỏ xanh, trắng của quả dưa hấu (tây qua bì) tính hàn, vị ngọt, có thể chữa các chứng cảm nắng, cảm nóng, phát sốt... Dân gian thường dùng cùi trắng (gọt sạch lớp vỏ xanh phía ngoài) ngâm nước vôi trong 5-6 giờ, vớt ra rửa kỹ bằng nước sạch, tráng lại bằng nước đun sôi để âm ấm (50-60 độ C), rồi đem thái chỉ hoặc nạo nhỏ, thắng nước đường, đổ cùi dưa vào, múc ra bát để nguội, làm món ăn giải khát, giải nhiệt rất tốt. Cũng có thể lấy toàn bộ cùi dưa hấu (không gọt bỏ vỏ xanh) đem phơi khô, những khi cần thì sắc uống để làm thuốc giải nhiệt.
Sau đây là một số bài thuốc từ dưa hấu:
- Trị nóng nực, ra nhiều mồ hôi, đầu váng mắt hoa, đau nhức:
Vỏ dưa hấu, bạch biển đậu (đậu ván trắng), liên diệp, trúc diệp tâm lượng bằng nhau sắc uống.
- Chữa nứt nẻ khóe môi:
Vỏ dưa hấu rửa sạch, thái sợi, sao vàng, tán thành bột mịn, trộn với mật ong, chấm vào chỗ nứt nẻ ngày 1-2 lần.
- Chữa viêm họng:
Vỏ dưa hấu rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước, cho thêm ít muối, dùng để ngậm và súc miệng rồi nhổ đi, nếu thực hiện đều đặn sẽ mau khỏi.
- Chữa các vết lở ngoài da:
Vỏ dưa hấu muối thành dưa, lấy nước đắp vào vết lở.
- Chữa ho ra máu:
Sắc đặc vỏ dưa hấu lấy nước uống.
- Chữa đau lưng và đau hai bên sườn khi thở:
Vỏ quả dưa hấu (dùng loại vỏ xanh biếc) sấy khô, tán nhỏ mịn. Khi dùng lấy 15 g, cho thêm vào chút muối và rượu, hòa trộn đều mà uống.
- Chữa đau răng:
Vỏ dưa hấu đã phơi khô, đem sao cháy, dùng nhét vào chỗ răng đau.
- Làm đẹp da mặt:
Thái dưa hấu thành từng miếng mỏng đắp kín da mặt, nằm yên 30-45 phút. Hoặc lấy phần trắng vỏ dưa hấu tươi (có lẫn phần đỏ của thịt quả càng tốt) xoa khắp mặt, để 3-4 giờ rồi rửa bằng nước sạch. Nếu thực hiện đều đặn sẽ làm da mặt trắng đẹp mịn màng.