Mối tình bất hủ của Thi sĩ Hữu Loan
Trời đứng bóng chúng tôi mới tới được nhà ông, đứng ngoài cánh cổng bằng tre gài sơ sài, tôi réo thật to: “Cụ Loan ơi!”.
Gần đây nghe tin ông ốm nặng, bệnh thấp khớp tái phát, đau nhiều khiến ông không đi lại được. Không biết đã bao lần tôi định bụng thu xếp công việc để về quê, ghé thăm ông, nhưng rồi cứ lần lữa mãi. Hôm nay nghe tin ông mất(ông mất lúc 19h, ngày 18/3/2010), tôi bàng hoàng, vừa đau buồn, vừa trách cứ bản thân.
Xin tạ lỗi cùng ông, tôi viết lại những kỷ niệm về ông như một lời tiễn biệt. Ở nơi chín suối mong ông được bình an!
Một số phận long đong
Lần cuối cùng gặp ông cũng đã tới 6 năm rồi. Ấy là khi chúng tôi cùng ông Lê Văn Chính, Giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB (từ thành phố Hồ Chí Minh ra) vào nhà ông (dưới chân núi Văn Lỗi, làng Văn Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, cách Thành phố Thanh Hóa chừng 50km) để xin nhượng bản quyền bài thơ “Màu tím hoa sim”.
Trời đứng bóng chúng tôi mới tới được nhà ông, đứng ngoài cánh cổng bằng tre gài sơ sài, tôi réo thật to: “Cụ Loan ơi!”. Lát sau, ông lững thững đi ra, áo may ô ba lỗ màu cháo lòng, quần đùi lửng, tay cầm chiếc quạt mo, vỗ phành phạch mấy cái vào đùi hỏi vọng ra: “Đứa nào đấy?”. Ông nheo mắt nhìn vào mặt tôi, rồi chợt nhận ra, có vẻ rất vui, cười sảng khoái. Ông bảo: “Trừ mày ra bố bảo đứa nào dám réo tên tao oang oang như rứa”.
Khi biết mục đích chuyến thăm ông lần này là Công ty điện tử Vitek VTB muốn mua độc quyền bài thơ “Màu tím hoa sim” của ông với cái giá 100 triệu đồng, ông tỏ ra khá sửng sốt.
Nhà thơ Hữu Loan.
Ông mời chúng tôi ngồi bên cái chõng, dưới gốc cây khế ngoài vườn, rồi lặng lẽ rót rượu ra mời khách. Mái tóc ông bạc trắng, để dài xõa xuống ngang vai, trước trán găm một cái bờm bằng nhựa màu huyết dụ. Bước vào cái tuổi cửu tuần rồi mà mắt ông vẫn còn tinh anh, giọng ông còn sang sảng, chỉ có điều, trông ông hơi hốc hác, những gân cổ và xương quai xanh nổi gồ cả lên, như đắp bằng thạch cao, như vạc bằng rìu.
Nhấp một ngụm rượu ông nhìn vào ông Giám đốc Công ty điện tử Vitek VTB như thăm dò: “Thế các ông lấy bao nhiêu phần trăm?”. “Của cụ hết cụ ạ” - sau khi nghe ông Chính nói vậy ông cười khà khà, quạt lấy quạt để.
Theo lý lịch công tác thì nhà thơ Hữu Loan sinh năm 1916, nhưng ông nói với tôi là ông sinh năm 1914 trong một gia đình tá điền nghèo, hồi nhỏ ông không có cơ may được cắp sách đến trường như bao đứa trẻ cùng trang lứa, chỉ học bữa được bữa không tại nhà do người cha dạy dỗ. Cha ông tuy là tá điền nhưng tư chất lại thông minh hơn người. Lên trung học, theo ban thành chung, ông cũng học tại Thanh Hóa, không có tiền ra Huế hoặc Hà Nội học.
Có lần Hữu Loan kể rằng, vào khoảng năm 1938, ông vác lều chõng ra Hà Nội đua tài, không phải là để thăng quan phát tài mà là để chứng minh cho đám con cháu nhà giàu thấy rằng con tá điền, không được đến trường, vẫn đỗ cao như chơi.
Đám sĩ tử kinh thành từ chỗ nhìn ông bằng “nửa con mắt” khi bước vào trường thi, đến “tròn con mắt” khi thấy tên ông trên bảng vàng. Ai cũng biết thi tú tài thời Pháp rất khó khăn. Số người đậu trong kỳ thi đó rất hiếm, hiếm đến nỗi sáu bảy chục năm sau người ta vẫn còn nhớ tên những người đậu khóa ấy, như Nguyễn Đình Thi, Hồ Trọng Gin, Trịnh văn Xuấn, Đỗ Thiện và Hữu Loan.
Có thể nói cuộc đời ông là một bi kịch lớn. Hữu Loan tham gia Mặt trận bình dân năm 1936, rồi tham gia Việt Minh ở thị xã Thanh Hóa (nay là TP Thanh Hóa)… Trước năm 1945, ông từng là cộng tác viên trên các tập san văn học xuất bản tại Hà Nội. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm Ủy viên Văn hóa trong Ủy ban Hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa. Theo Hữu Loan kể lại thì một lần tại cuộc họp của Ủy ban hành chính ông đã nhảy lên bàn đấm thẳng vào mặt một tay “giữ “túi cơm, manh áo” của kháng chiến, đã ăn bớt ăn xén của anh em lại còn phát biểu láo”. Hữu Loan bỏ về quê đi cày. Mến mộ tài danh cái “gã giang hồ mà lịch duyệt” ấy nên lưỡng quốc Tướng quân Nguyễn Sơn đã mời ông vào phục vụ trong Đại đoàn 304.
Sau năm 1954, ông về làm biên tập viên tại Báo Văn Nghệ. Nhưng rồi cũng chỉ được một thời gian ngắn. Chán ngán với cảnh “gà nhà đá nhau”, rồi “gà nhà bị người ta đá”, ông đứng giữa sân trụ sở làm việc bẻ đôi chiếc bút, vứt vào sọt rác: “Ông đếch làm việc với chúng mày nữa” và bỏ về quê đi cày, đi thồ đá bán lấy tiền nuôi đàn con hơn chục đứa. Và ông ở quê cho tới ngày ông trút hơi thở cuối cùng.
Người con gái trong “Màu tím hoa sim”
Trong sự nghiệp sáng tác của mình Hữu Loan viết không nhiều. Trong số khoảng trăm bài thơ của ông mà tôi biết, thực tình mà nói, tôi vẫn coi “Đèo cả” là một tuyệt tác của ông. Tuy nhiên bài thơ mà nhiều người biết đến nhất và ông nổi tiếng vì nó lại là bài “Màu tím hoa sim”. Và gần như cuộc đời thăng trầm của ông cũng gắn với bài thơ này.
Theo nhà thơ Hữu Loan thì đây là bài thơ ông khóc người vợ xấu số của mình là Lê Đỗ Thị Ninh. Xung quanh câu chuyện này đã được kể và viết rất nhiều và không ít người đã thêu dệt cho nó ly kỳ.
Trong nhiều năm quen biết và qua nhiều lần trò chuyện cùng ông cả trong lúc “trà dư tửu hậu”, ông đã kể cho tôi nghe về người vợ xấu số của ông. Tôi cũng đã về tận Nông Cống (Thanh Hóa) nơi Lê Đỗ Thị Ninh bị dòng nước cuốn đi và “sinh ra” cho người đời một khúc bi ca bất hủ. Tôi cũng đã lần tìm tới những người thân của bà Ninh để được nghe về cuộc đời ngắn ngủi của bà.
Nhà thơ Hữu Loan kể: “Vào khoảng năm 1932-1933, tôi được gia đình cho lên thành phố Thanh Hoá để theo học trung học.
Ở Thanh Hoá thời bấy giờ có hai hiệu sách rất nổi tiếng. Một hiệu có tên là Hà Thành. Đây là hiệu sách của ông Trương Khâm, khi ấy là huynh trưởng hướng đạo sinh Hà Thành. Còn hiệu sách thứ hai là hiệu Hoà Yên của bà Tham Kỳ (tức bà Đái Thị Ngọc Chất) ở 48 phố Lớn (Trần Phú hiện nay). Bà Chất là vợ ông Lê Đỗ Kỳ, kỹ sư canh nông, có lúc làm Thanh tra canh nông Đông Dương; sau này từng làm Chủ tịch huyện Đông Sơn, rồi huyện Nông Cống, Thanh Hoá, là đại biểu Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam DCCH. Sau này ông Kỳ đưa cả gia đình ra Hà Nội sinh sống. Lũ học sinh chúng tôi thường ra hiệu sách của bà Tham Kỳ để mượn đọc”.
Bà Đái Thị Ngọc Chất là người rất yêu văn chương, thấy Hữu Loan nhà nghèo nhưng lại ham học nên rất quý. Bà thường “đàm đạo” thơ văn với Hữu Loan. Phần vì trọng tài, phần vì nể phục tư chất thông minh và khảng khái của chàng trai nên bà Chất bàn với chồng mời Hữu Loan về làm gia sư cho 3 người con trai của mình.
Trong bài thơ “Màu tím hoa sim”, Hữu Loan viết rất thật: “Nhà nàng có ba người anh đi bộ đội…”. Người con trai cả của ông bà Tham Kỳ là Lê Hữu Khôi, tham gia kháng chiến chống Pháp, hy sinh (năm 1954) chỉ vài giờ trước khi đơn vị của ông bắt sống tướng De Castri, hoàn thành thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử. Người con thứ hai là Lê Đỗ Nguyên, chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam.
Người con trai thứ ba mà Hữu Loan làm gia sư là Lê Đỗ An, sau này lấy tên là Nguyễn Tiên Phong, nguyên Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh (nay đã mất). Lê Đỗ Thị Ninh là cô con gái kế tiếp của vợ chồng ông Tham Kỳ.
“Các em nàng có em chưa biết nói…”. “Người em chưa biết nói mà nhà thơ Hữu Loan nói tới trong bài thơ chính là em Lê Thị Như Ý, sau này là giáo viên, hiện đã nghỉ hưu tại Hà Nội” - Trung tướng Phạm Hồng Cư cho chúng tôi biết.
Khi Hữu Loan đến làm gia sư trong nhà ông bà Tham Kỳ thì ông đã 18 tuổi (Hữu Loan sinh năm 1916) còn Lê Đỗ Thị Ninh còn là một cô bé vài ba tuổi. Ông đã viết rất thực: “Yêu nàng như tình yêu em gái”. Ông coi Lê Đỗ Thị Ninh như em gái thật.
“Nhưng hình như ngay từ lúc tôi bước chân tới nhà bà Tham Kỳ thì bà cụ đã có ý gán Ninh cho tôi. Bà rất quý tôi, dành cho tôi nhiều ưu ái. Tôi ở trong nhà một thời gian thì dọn đi vì bà không chịu lấy tiền nhà, nhưng khi tôi ngã ốm thì bà lại đưa về nhà nuôi. Lê Đỗ Thị Ninh khi ấy còn nhỏ nhưng đã rất có cá tính. Nàng không thích lụa là mà chỉ thích mặc áo vải. Như duyên tiền định, mặc dù trong nhà không ít người làm, nhưng nàng vẫn thường tự rút quần áo của tôi phơi ngoài sân” – Hữu Loan cho biết trong lần trò chuyện với chúng tôi.
Khi Lê Đỗ Thị Ninh lớn lên đi học thì Hữu Loan đã trở thành thầy dạy Pháp văn tại một trường tư thục ở Thành phố Thanh Hoá. Hàng ngày bà Tham Kỳ cho xe kéo tay đưa cô Ninh đi học, sau đó đưa Hữu Loan đến trường. Lê Đỗ Thị Ninh học đến lớp 5 thì Nhật ném bom nên đành phải thôi học.
Trung Tướng Cư nhớ lại: “Em Ninh là một cô bé hiền thục và chăm làm lắm. Bố tôi chuyển ra Hà Nội làm ở Bộ Canh nông, ba anh em chúng tôi ra Hà Nội học rồi tham gia cách mạng. Mẹ và em Ninh phải về ấp Thị Long (Nông Cống, Thanh Hoá), nơi gia đình chúng tôi có mấy mẫu ruộng, đồng thời cũng là để nuôi bà ngoại tôi bị ốm nặng nằm liệt (tai biến mạch máu não). Mẹ tôi phải túc trực bên bà nên mọi chuyện như làm ruộng, nuôi gà, chăn vịt… đều dồn hết lên vai em Ninh”.
Tuy nhiên chuyện chỉ mới dừng ở đấy, bởi vì đối với Hữu Loan khoảng cách tuổi tác giữa hai người quá lớn (16 tuổi) và ông vẫn coi Ninh như em gái.
Mối tình bất hủ
Sau cách mạng Tháng Tám, Hữu Loan trở thành Uỷ viên văn hoá trong Uỷ ban hành chính lâm thời tỉnh Thanh Hóa, phụ trách 4 ty: giáo dục, thông tin, công chính và thương chính. Khi khai mạc “Tuần lễ vàng”, ông viết và đọc một bài diễn văn hùng hồn khiến nhiều người dân, trong đó có cô Lê Đỗ Thị Ninh lúc ấy đã 15 tuổi, vô cùng xúc động, đã bỏ tất cả vòng tay, hoa tai vàng ra để hiến cho cách mạng.
Khoảng năm 1947 Hữu Loan làm chủ bút báo “Chiến sỹ” đóng ở miền Trung, dưới quyền có Vũ Cao, tác giả bài thơ “Núi đôi” nổi tiếng và Nguyễn Đình Tiên, tác giả cuốn “Chân dung tướng nguỵ Sài Gòn”. Nguyễn Đình Tiên là cậu họ của Lê Đỗ Thị Ninh.
Một lần trên đường từ Thanh Hoá vào đơn vị Nguyễn Đình Tiên đã nói với Hữu Loan: “Tao thấy con bé Ninh đem va ly quần áo của mày ra phơi và chải đấy”. Hữu Loan ngồi im lặng. Nguyễn Đình Tiên nói thêm: “Hình như chị Kỳ muốn gả nó cho mày”. Hữu Loan gạt đi: “Nó còn nhỏ quá, tao coi nó như em gái mình, lấy làm sao được mà lấy”. Nguyễn Đình Tiên mắng át đi: “Mày lạc hậu lắm. Chị Kỳ dành cho mày mà mày lại không nhận là mày bạc lắm”. Hữu Loan vẫn phân vân. Nguyễn Đình Tiên bồi thêm: “Thôi được rồi để tao thu xếp cho”.
Sau đó Hữu Loan nhận được thư của bà Tham Kỳ gửi vào. Ngày mùng 6 tháng hai (âm lịch) năm 1948, đám cưới của Hữu Loan và Lê Đỗ Thị Ninh được tổ chức tại ấp Thị Long. Đám cưới đúng như Hữu Loan tả trong thơ: “Tôi mặc đồ quân nhân/ đôi giày đinh/ bết bụi đất hành quân/ nàng cười xinh xinh/ bên anh chồng độc đáo”. Hữu Loan nghỉ phép ở bên người vợ trẻ được một thời gian, trong đó có ít ngày hai vợ chồng về thăm quê ông ở Nga Lĩnh, Nga Sơn. Hữu Loan kể rằng có lần hai vợ chồng đi chơi với nhau ở phố Thanh Hóa, Hữu Loan 33 tuổi, để râu ria rậm rạp tự thấy mình già, đi bên cạnh người vợ mới 17 tuổi thì ngượng nên cứ cố ý tụt lại sau. Người vợ trẻ kéo ông đi cạnh mình rồi bảo: “Em thích có người chồng già như anh”.
Sau “tuần trăng mật”, Hữu Loan từ biệt người vợ trẻ trở lại đơn vị lúc ấy đang đóng quân ở Thọ Xuân (Thanh Hóa), cách nhà chừng 100 cây số. Thỉnh thoảng chủ nhật Hữu Loan tranh thủ về thăm vợ. Hạnh phúc của họ thật ngắn ngủi, gần 4 tháng sau ngày cưới, ngày 29 tháng 5 (âm lịch) năm 1948, Lê Đỗ Thị Ninh bị chết đuối tại ấp Thị Long khi đang giặt ở sông Chuồng.
“Gió sớm thu về/ rờn rợn nước sông…”. Con sông dữ, mùa nước lũ ở vùng núi Nưa nước cuồn cuộn đổ về, nàng ra sông giặt, trượt chân ngã và bị nước cuốn đi. “Tôi về/ không gặp nàng. / Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối/ chiếc bình hoa ngày cưới/ thành bình hương/ tàn lạnh vây quanh”. Khó hình dung nổi nỗi đau của Hữu Loan khi nghe tin vợ mất, nàng còn quá trẻ: “Tóc nàng xanh xanh/ ngắn chưa đầy búi. /Em ơi giây phút cuối/ không được nghe nhau nói/ không được nhìn nhau một lần”.
Nhà thơ Vũ Cao sau này kể lại: “Hôm ấy ngồi trong một quán nhỏ ở Thanh Hóa, anh báo cho tôi biết cái tin đột ngột: Lê Đỗ Thị Ninh vừa mất. Bàn tay anh cầm cốc nước run lên bần bật, nước bắn tung tóe xuống bàn, mặt anh tái xanh…”.
Và rồi ba người anh của nàng cũng bàng hoàng. Trung tướng Phạm Hồng Cư kể: “Vào thời gian em Ninh mất tôi và anh Khôi đang ở mặt trận, còn chú Lê Đỗ An (tức Nguyễn Tiên Phong) thì đang công tác ở Trung ương đoàn. Năm 1949 tôi được điều về làm ở phòng chính trị Cục quân huấn của Cục Chính trị Bộ quốc phòng (nay là Tổng Cục chính trị), trong một lần đi họp có gặp anh Võ Trí Sơn, bạn thân của anh Hữu Loan, đồng thời cũng là người bạn của gia đình chúng tôi. Anh Sơn bảo: “Em Ninh chết rồi, em chết đuối”. Tôi choáng váng. Anh Sơn bảo tiếp: “Nó lấy Hữu Loan đấy”. Lúc bấy giờ tôi mới biết em Ninh đã lấy nhà thơ Hữu Loan”. Đúng như Hữu Loan viết trong bài thơ: “Ba người anh trên chiến trường Đông Bắc/ biết tin em gái mất/ trước khi em lấy chồng”.
Hữu Loan viết “Màu tím hoa sim” năm 1949, khi đang dự chỉnh huấn ở Nghệ An. Ông viết liền một mạch, xong trong vòng hai tiếng đồng hồ, gần như hoàn chỉnh luôn, sau này ông chỉ sửa thêm rất ít. Nó là một phần của cuộc đời Hữu Loan, mà có thể lại là phần đẹp và buồn nhất, nên cho dù ông viết rất thật, rất mộc mạc, nói như Vũ Bằng là “không có gọt rũa, không có văn chương gì cả”, hay như Vũ Cao “không có chữ nghĩa gì cả”, nhưng lại có sức lay động tột cùng và có sức sống mãnh liệt ngay cả trong những giai đoạn mà tác giả và tác phẩm không được thừa nhận.
Nhà thơ Hữu Loan và người vợ sau, bà Phạm Thị Nhu.
Sau này ông kết duyên và sống trọn đời với người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu. “Bà ấy cũng là một người phụ nữ sâu sắc. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé vào mỗi buổi chiều lại lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy mới nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nên nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt. Thì ra cô ta cũng là người có tâm hồn. Khiến tôi vẫn phải suy nghĩ rất nhiều mới có quyết định này. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm” - có lần Hữu Loan kể như thế.
Giờ đây ông ra đi sau gần một thế kỷ ở dương thế, nơi mà dấu chân ông đã in suốt chiều dài của cuộc sống thăng trầm nhuộm tím màu hoa sim, về với cõi mộng mơ để rồi lại bước tiếp:
“Qua những đồi hoa sim
Những đồi sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím chiều hoang biền biệt…”.
Nguồn của: http://www.tinmoi.vn
Nhà thơ Hữu Loan!!!
- mrguitar
- Posts: 629
- Joined: Wed Feb 03, 2010 5:37 pm
- Location: Đường nhỏ, ngõ nhỏ, nhà nhỏ....
- Contact:
Nhà thơ Hữu Loan!!!
.... " Tiếng nấc quyện với tiếng đàn.
Sẽ gạt đi những nỗi đau.... "
!!!
Sẽ gạt đi những nỗi đau.... "
!!!
Màu Tím Hoa Sim (Hữu Loan)
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu./
Sự thật về những người anh trong bài thơ "Màu tím hoa Sim"
Bài thơ "Màu tím hoa sim" ra đời đã hơn 50 năm, nhưng dư âm về một tình yêu thủy chung vẫn còn tươi mới đến hôm nay. Nhà thơ Hữu Loan đã nhiều lần kể về nhân vật người em gái trong bài thơ của ông, kể cả người chồng "tôi người vệ quốc quân, yêu nàng như tình yêu em gái" ấy
Và, cũng đã có lần nhà thơ loáng thoáng kể về ba người anh trai của nàng-ba nhân vật có thật ngoài cuộc đời. Tôi đã may mắn gặp được người anh trai thứ hai trong bài thơ, và được nghe ông kể về ký ức chiến tranh của anh em ông, đẹp, hào hùng nhưng cũng rất đau thương-nỗi đau không chỉ dừng lại ở “biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng”. Nhưng, họ đã vượt qua những nỗi đau riêng để vì việc nước. Xin gửi tới bạn đọc câu chuyện ấy.
1.Nàng, người con gái trong "Màu tím hoa sim" tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh, con thứ tư trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng ở huyện Đông Sơn (cũ) thuộc tỉnh Thanh Hóa. Cha nàng tên là Lê Đỗ Kỳ, từng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến một xã ở huyện Đông Sơn, và cũng là một trong những đại biểu Quốc hội khóa I của Thanh Hóa, còn mẹ nàng là một người nuôi dấu bộ đội trong những năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ. Chồng nàng-nhà thơ Hữu Loan là một trong số "anh bộ đội” được mẹ nàng nuôi nấng và được gia đình coi như một thành viên.
Trước Cách mạng Tháng Tám, cụ Lê Đỗ Kỳ là một chuyên viên canh nông, chuyên về các cây công nghiệp ở Bến Cát (Bình Dương). Nàng và các anh nàng từng sinh sống ở mảnh đất này, sau này cha nàng chuyển công tác ra Viện nghiên cứu nông nghịêp ở Hà Nội. Chính vì sống ở phương Nam nên họ gọi cha mẹ là "ba, má", nên trong bài thơ có câu "má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối" là vậy.
Gia đình nàng có đến 8 người con, sau nàng còn có 3 người em trai tên là Lê Đỗ Khang, Lê Đỗ Bình, Lê Đỗ Thái và một em gái út tên là Lê Đỗ Như Ý. Trước khi nàng mất, Như Ý còn chưa biết nói như trong một câu thơ của "Màu tím hoa sim". Bây giờ, Như Ý là một giáo viên đã nghỉ hưu ở Hà Nội. Còn 3 người anh trai trước nàng, thực ra chỉ có 2 người anh đi bộ đội. Người anh trai thứ ba là Lê Đỗ An, chưa từng đi bộ đội ngày nào. Nhưng theo truyền thống gia đình, ông hoạt động cách mạng từ rất sớm với tên bí danh là Nguyễn Tiên Phong. Trong kháng chiến chống Mỹ ông từng là Bí thư Trung ương Đoàn sau đó từng giữ chức Phó Ban dân vận Trung ương.
Nhà thơ Hữu Loan từng là thầy dạy kèm về văn hóa cho 3 người anh trai của nàng, và cả nàng nữa, khi các anh nàng còn học ở Thanh Hóa. Tuy là "em rể" nhưng 3 người anh nàng luôn coi Hữu Loan như anh trai của mình. Ấn tượng về Hữu Loan trong ký ức của người anh thứ hai như thế này: "Anh ấy kiến thức rộng, tính ngay thẳng. Anh em chúng tôi học được rất nhiều điều ở anh, nhất là sự thẳng thắn và đặc biệt là tình yêu văn học".
Ở các trường phổ thông, kể cả trường Đại học, một số thầy cô vẫn thường so sánh hành ảnh của 3 người con gái trong 3 bài thơ "Núi đôi" (Vũ Cao), Quê hương (Giang Nam) và "Màu tím hoa sim", thậm chí, có người còn so sánh cả…cái chết để tìm ra điểm tương đồng. Trong hai bài thơ kia, hai cô gái là hai nữ du kích bị giặc giết hại. Còn cô gái của "Màu tím hoa sim", chết trong một lần bị sảy chân xuống dòng sông Nông Giang ở quê nhà khi nàng đi giặt, và nhà thơ Hữu Loan từng nhắc về cái chết ấy qua một hình ảnh rất gợi "gió sớm thu về gờn gợn nước sông". Dòng sông này, một lần nữa lại cướp đi người cha của nàng trong một lần ông về quê nghỉ phép. Nói chuyện chết chóc, để càng hiểu hơn những hy sinh thầm lặng của những người chiến sỹ của chúng ta một thời bên cạnh những gian nan vất vả mà họ từng phải nếm trải, trong đó có chồng người con gái ấy và cả các anh của nàng nữa.
2. Người anh của của nàng tên là Lê Đỗ Khôi, từng là một chiến sỹ Điện Biên, có mặt suốt 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm. Sau một thời gian học ở Thanh Hóa, ông Khôi chuyển ra trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An-Hà Nội) để học tập. Khí thế cách mạng hừng hực trong trái tim tuổi trẻ một thời, đặc biệt sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, ông trốn học về Thanh Hóa tham gia tiền khởi nghĩa, sau đó ông ra Hà Nội và vào Quân đội. Ông từng là chiến sỹ pháo binh của pháo đài Xuân Tảo (pháo đài Xuân Tảo và pháo đài Láng là hai pháo đài nổ súng bắn vào Hà Nội, mở đầu kháng chiến toàn quốc ngày 19-12-1946). Năm 1950, ông là Chính trị viên của Tiểu đoàn 115, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị ông đánh vào cứ điểm 105 phía Bắc sân bay Mường Thanh. Trong đợt tổng công kích, đơn vị đánh dọc theo sông Nậm Rốm vào cứ điểm 506, để tiến lên đánh cầu sắt Mường Thanh.
Trận đánh này, trong cuốn “Điện Biên Phủ”, trang 185, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: "Trong khi ấy, tại cứ điểm 506 và 507, dưới chân dãy đồi cao phía Đông, cuộc chiến đấu của các Trung đoàn 165 và 209 thuộc Đại đoàn 312 cũng diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Tại 506, sau khi vào bên trong cứ điểm, quân ta đã đánh bại 10 cuộc phản kích của địch. Đến 9 giờ sáng ngày 7-5-1954, được tăng cường lực lượng và hỏa lực, Trung đoàn 165 đã mở cuộc tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch, chiếm lĩnh cứ điểm 506”.
14 giờ ngày 7-5, một đơn vị của ta mở cuộc tấn công vào vị trí 507 ở gần cầu sắt Mường Thanh. Địch đối phó yếu ớt, toàn bộ binh lính địch kéo cờ trắng ra hàng. Sau 14 giờ, địch ném bom vào vị trí 506 hòng chặn hướng tấn công của lực lượng ta. Đồng chí Lê Đỗ Khôi bị thương nặng. Trên đường cáng thương ông ra phía đồi Him Lam, một trận bom nữa xối xuống con đường đó, vào khoảng 15 giờ 30. Ông Khôi và một số đồng đội nằm lại vĩnh viễn với đất đá Điện Biên từ thời khắc ấy, trước giờ phút lịch sử chấn động địa cầu khoảng 2 tiếng đồng hồ!
Trước khi lên đường nhập ngũ, đồng chí Lê Đỗ Khôi có ước hẹn với một người con gái Hà Nội. Sau ngày về tiếp quản Thủ đô, người con gái ấy tìm trong những người lính trở về người mình từng hẹn ước. Khi biết sự thật, cô im lặng…Cô hiểu Điện Biên Phủ và cái giá của chiến thắng. Bao nhiêu năm sau cô nhất định không chịu đi lấy chồng, sống trong sự chống chếnh bởi những mất mát. Sau đó, đồng đội của đồng chí Khôi thuyết phục, cô mới chịu nghĩ đến hạnh phúc của riêng mình…
3. Người anh trai thứ hai của nàng tên là Lê Đỗ Nguyên, cũng là một chiến sỹ Điện Biên, và trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông là Phó Chính ủy Trung đoàn 36, Đại đoàn 308. Trong những tháng ngày chinh chiến ở chiến trường Đông Bắc để chuẩn bị tiến lên Điện Biên, ông Nguyên và anh trai ông nhận được tin đau buồn về cái chết của người em gái từ một người bạn học. Đồng chí ấy báo tin em gái ông mất trước khi cho ông biết em gái ông đã lấy nhà thơ Hữu Loan, hoàn cảnh rất đúng như trong bài "Màu tím hoa sim" (Biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng). Hai người anh nén nỗi niềm riêng để dồn tinh thần cho cuộc kháng chiến đang dần về đích. Trước khi vào chiến dịch Điện Biên Phủ, hai anh em có dịp được gặp nhau và hẹn nhau sẽ tiếp tục gặp lại trong ngày chiến thắng. Sau chiến thắng, trong tiếng quân reo hò, ông Nguyên đi tìm anh như lời hẹn trước khi vào trận. Ông mải miết tìm hết nơi này sang nơi khác, nhưng giữa bao chiến sỹ, không thấy bóng dáng anh trai mình. Đến ngày đơn vị ông được lệnh rút khỏi Điện Biên Phủ, ông được gặp một người bạn học cũ ở trường Bưởi, người bạn báo tin rằng anh trai ông đã hy sinh…
Ông Nguyên quay lại địa điểm anh mình hy sinh theo thông tin từ nhiều người, không thấy bất cứ một thi hài nào mà toàn là hố bom, vết thương trong lòng đất đá còn rất mới. Về sau này, hài cốt các liệt sỹ của đơn vị anh trai mình được quy tập về nghĩa trang Đồi A1, ông Nguyên tin rằng, anh trai mình vẫn ở đâu đó, tại nghĩa trang này cùng đồng đội. Về sau này, dù cuốn theo công việc, nhưng lòng ông vẫn đau đáu về Điện Biên. Một lần tìm trong bia một liệt sỹ có tên là Lê Văn Khôi, ông Nguyên cứ đinh ninh nhầm chữ lót.
Hai năm trước, trong dịp kỷ niệm 50 năm Điện Biên chiến thắng, người em trai Lê Đỗ Bình lên Điện Biên Phủ viếng mộ anh, thấy tên khang khác nên ông Bình đoán rằng ngôi mộ đó không phải của anh trai mình. Ông Bình vào Sở Lao động Thương Binh và Xã hội Điện Biên để tra sổ sách thì, liệt sỹ có tên Lê Văn Khôi không trùng quê quán với ông và ông tra tỷ mỉ trong cuốn sổ thì té ra, liệt sỹ Lê Đỗ Khôi cũng không có tên trong sổ trong khi vẫn lưu danh trong sổ của Cục Chính sách (Thuộc Tổng cục Chính trị) . Sau đó, ông Bình có thưa chuyện lại với ông Nguyên và làm tờ trình lên Cục Chính sách, Cục đã đề nghị Sở LĐ-TB&XH Điện Biên và vấn đề được giải quyết chỉ trong vòng 1 ngày. Trong giây phút Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào viếng nghĩa trang đồi A1, ông Nguyên đi cùng đoàn, nhìn lên tấm bia thấy tên anh trai mình, nét chữ thếp vàng còn mới tinh. Ông thấy mình được an ủi vì như vậy, anh trai mình đã được tìm, dù mới chỉ là dòng tên thôi…
Trước khi lễ Kỷ niệm 50 năm chiến thắng, Đài truyền hình có mời hai nhân chứng của Điện Biên tham gia giao lưu là đồng chí Hoàng Đăng Vinh, người từng tham gia bắt sống tướng Đờ Cát và đồng chí Lê Đỗ Nguyên. Ông Nguyên đã không nén nổi xúc động trong buổi giao lưu khi người dẫn chương trình hỏi ông về cảm tưởng lần trở lại Điện Biên này:
-Cảm tưởng của tôi lúc này là vui nhưng xen lẫn một nỗi buồn, một nỗi nhớ. Tôi vui vì lên Tây Bắc lần này thấy đời sống của đồng bào khá hơn nhiều, trong đó những người lính chúng tôi cũng đã góp được một phần nhỏ bé. Còn một nỗi nhớ không nguôi được, là nhớ về những chiến sỹ Điện Biên không còn có mặt trong ngày hôm nay, trong đó có anh trai tôi. Anh tôi ngã xuống trước chiến thắng chừng hai tiếng đồng hồ, và cách điểm cắm cờ chiến thắng có mấy trăm mét…
Một điều mà hôm nay ông Nguyên mới kể, là khi ông Khôi ngã xuống không biết cha mình đã chết. Còn ông Nguyên, mãi lần về tiếp quản Thủ đô, lại nhận thêm một tin sét đánh nữa là cha không còn!
Người anh trai thứ hai ấy-đồng chí Lê Đỗ Nguyên chắc không quá xa lạ với chúng ta, đó chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị-Quân đội nhân dân Việt Nam.
(Hoang Nguyen)
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu./
Sự thật về những người anh trong bài thơ "Màu tím hoa Sim"
Bài thơ "Màu tím hoa sim" ra đời đã hơn 50 năm, nhưng dư âm về một tình yêu thủy chung vẫn còn tươi mới đến hôm nay. Nhà thơ Hữu Loan đã nhiều lần kể về nhân vật người em gái trong bài thơ của ông, kể cả người chồng "tôi người vệ quốc quân, yêu nàng như tình yêu em gái" ấy
Và, cũng đã có lần nhà thơ loáng thoáng kể về ba người anh trai của nàng-ba nhân vật có thật ngoài cuộc đời. Tôi đã may mắn gặp được người anh trai thứ hai trong bài thơ, và được nghe ông kể về ký ức chiến tranh của anh em ông, đẹp, hào hùng nhưng cũng rất đau thương-nỗi đau không chỉ dừng lại ở “biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng”. Nhưng, họ đã vượt qua những nỗi đau riêng để vì việc nước. Xin gửi tới bạn đọc câu chuyện ấy.
1.Nàng, người con gái trong "Màu tím hoa sim" tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh, con thứ tư trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng ở huyện Đông Sơn (cũ) thuộc tỉnh Thanh Hóa. Cha nàng tên là Lê Đỗ Kỳ, từng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến một xã ở huyện Đông Sơn, và cũng là một trong những đại biểu Quốc hội khóa I của Thanh Hóa, còn mẹ nàng là một người nuôi dấu bộ đội trong những năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ. Chồng nàng-nhà thơ Hữu Loan là một trong số "anh bộ đội” được mẹ nàng nuôi nấng và được gia đình coi như một thành viên.
Trước Cách mạng Tháng Tám, cụ Lê Đỗ Kỳ là một chuyên viên canh nông, chuyên về các cây công nghiệp ở Bến Cát (Bình Dương). Nàng và các anh nàng từng sinh sống ở mảnh đất này, sau này cha nàng chuyển công tác ra Viện nghiên cứu nông nghịêp ở Hà Nội. Chính vì sống ở phương Nam nên họ gọi cha mẹ là "ba, má", nên trong bài thơ có câu "má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối" là vậy.
Gia đình nàng có đến 8 người con, sau nàng còn có 3 người em trai tên là Lê Đỗ Khang, Lê Đỗ Bình, Lê Đỗ Thái và một em gái út tên là Lê Đỗ Như Ý. Trước khi nàng mất, Như Ý còn chưa biết nói như trong một câu thơ của "Màu tím hoa sim". Bây giờ, Như Ý là một giáo viên đã nghỉ hưu ở Hà Nội. Còn 3 người anh trai trước nàng, thực ra chỉ có 2 người anh đi bộ đội. Người anh trai thứ ba là Lê Đỗ An, chưa từng đi bộ đội ngày nào. Nhưng theo truyền thống gia đình, ông hoạt động cách mạng từ rất sớm với tên bí danh là Nguyễn Tiên Phong. Trong kháng chiến chống Mỹ ông từng là Bí thư Trung ương Đoàn sau đó từng giữ chức Phó Ban dân vận Trung ương.
Nhà thơ Hữu Loan từng là thầy dạy kèm về văn hóa cho 3 người anh trai của nàng, và cả nàng nữa, khi các anh nàng còn học ở Thanh Hóa. Tuy là "em rể" nhưng 3 người anh nàng luôn coi Hữu Loan như anh trai của mình. Ấn tượng về Hữu Loan trong ký ức của người anh thứ hai như thế này: "Anh ấy kiến thức rộng, tính ngay thẳng. Anh em chúng tôi học được rất nhiều điều ở anh, nhất là sự thẳng thắn và đặc biệt là tình yêu văn học".
Ở các trường phổ thông, kể cả trường Đại học, một số thầy cô vẫn thường so sánh hành ảnh của 3 người con gái trong 3 bài thơ "Núi đôi" (Vũ Cao), Quê hương (Giang Nam) và "Màu tím hoa sim", thậm chí, có người còn so sánh cả…cái chết để tìm ra điểm tương đồng. Trong hai bài thơ kia, hai cô gái là hai nữ du kích bị giặc giết hại. Còn cô gái của "Màu tím hoa sim", chết trong một lần bị sảy chân xuống dòng sông Nông Giang ở quê nhà khi nàng đi giặt, và nhà thơ Hữu Loan từng nhắc về cái chết ấy qua một hình ảnh rất gợi "gió sớm thu về gờn gợn nước sông". Dòng sông này, một lần nữa lại cướp đi người cha của nàng trong một lần ông về quê nghỉ phép. Nói chuyện chết chóc, để càng hiểu hơn những hy sinh thầm lặng của những người chiến sỹ của chúng ta một thời bên cạnh những gian nan vất vả mà họ từng phải nếm trải, trong đó có chồng người con gái ấy và cả các anh của nàng nữa.
2. Người anh của của nàng tên là Lê Đỗ Khôi, từng là một chiến sỹ Điện Biên, có mặt suốt 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm. Sau một thời gian học ở Thanh Hóa, ông Khôi chuyển ra trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An-Hà Nội) để học tập. Khí thế cách mạng hừng hực trong trái tim tuổi trẻ một thời, đặc biệt sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, ông trốn học về Thanh Hóa tham gia tiền khởi nghĩa, sau đó ông ra Hà Nội và vào Quân đội. Ông từng là chiến sỹ pháo binh của pháo đài Xuân Tảo (pháo đài Xuân Tảo và pháo đài Láng là hai pháo đài nổ súng bắn vào Hà Nội, mở đầu kháng chiến toàn quốc ngày 19-12-1946). Năm 1950, ông là Chính trị viên của Tiểu đoàn 115, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị ông đánh vào cứ điểm 105 phía Bắc sân bay Mường Thanh. Trong đợt tổng công kích, đơn vị đánh dọc theo sông Nậm Rốm vào cứ điểm 506, để tiến lên đánh cầu sắt Mường Thanh.
Trận đánh này, trong cuốn “Điện Biên Phủ”, trang 185, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: "Trong khi ấy, tại cứ điểm 506 và 507, dưới chân dãy đồi cao phía Đông, cuộc chiến đấu của các Trung đoàn 165 và 209 thuộc Đại đoàn 312 cũng diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Tại 506, sau khi vào bên trong cứ điểm, quân ta đã đánh bại 10 cuộc phản kích của địch. Đến 9 giờ sáng ngày 7-5-1954, được tăng cường lực lượng và hỏa lực, Trung đoàn 165 đã mở cuộc tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch, chiếm lĩnh cứ điểm 506”.
14 giờ ngày 7-5, một đơn vị của ta mở cuộc tấn công vào vị trí 507 ở gần cầu sắt Mường Thanh. Địch đối phó yếu ớt, toàn bộ binh lính địch kéo cờ trắng ra hàng. Sau 14 giờ, địch ném bom vào vị trí 506 hòng chặn hướng tấn công của lực lượng ta. Đồng chí Lê Đỗ Khôi bị thương nặng. Trên đường cáng thương ông ra phía đồi Him Lam, một trận bom nữa xối xuống con đường đó, vào khoảng 15 giờ 30. Ông Khôi và một số đồng đội nằm lại vĩnh viễn với đất đá Điện Biên từ thời khắc ấy, trước giờ phút lịch sử chấn động địa cầu khoảng 2 tiếng đồng hồ!
Trước khi lên đường nhập ngũ, đồng chí Lê Đỗ Khôi có ước hẹn với một người con gái Hà Nội. Sau ngày về tiếp quản Thủ đô, người con gái ấy tìm trong những người lính trở về người mình từng hẹn ước. Khi biết sự thật, cô im lặng…Cô hiểu Điện Biên Phủ và cái giá của chiến thắng. Bao nhiêu năm sau cô nhất định không chịu đi lấy chồng, sống trong sự chống chếnh bởi những mất mát. Sau đó, đồng đội của đồng chí Khôi thuyết phục, cô mới chịu nghĩ đến hạnh phúc của riêng mình…
3. Người anh trai thứ hai của nàng tên là Lê Đỗ Nguyên, cũng là một chiến sỹ Điện Biên, và trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông là Phó Chính ủy Trung đoàn 36, Đại đoàn 308. Trong những tháng ngày chinh chiến ở chiến trường Đông Bắc để chuẩn bị tiến lên Điện Biên, ông Nguyên và anh trai ông nhận được tin đau buồn về cái chết của người em gái từ một người bạn học. Đồng chí ấy báo tin em gái ông mất trước khi cho ông biết em gái ông đã lấy nhà thơ Hữu Loan, hoàn cảnh rất đúng như trong bài "Màu tím hoa sim" (Biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng). Hai người anh nén nỗi niềm riêng để dồn tinh thần cho cuộc kháng chiến đang dần về đích. Trước khi vào chiến dịch Điện Biên Phủ, hai anh em có dịp được gặp nhau và hẹn nhau sẽ tiếp tục gặp lại trong ngày chiến thắng. Sau chiến thắng, trong tiếng quân reo hò, ông Nguyên đi tìm anh như lời hẹn trước khi vào trận. Ông mải miết tìm hết nơi này sang nơi khác, nhưng giữa bao chiến sỹ, không thấy bóng dáng anh trai mình. Đến ngày đơn vị ông được lệnh rút khỏi Điện Biên Phủ, ông được gặp một người bạn học cũ ở trường Bưởi, người bạn báo tin rằng anh trai ông đã hy sinh…
Ông Nguyên quay lại địa điểm anh mình hy sinh theo thông tin từ nhiều người, không thấy bất cứ một thi hài nào mà toàn là hố bom, vết thương trong lòng đất đá còn rất mới. Về sau này, hài cốt các liệt sỹ của đơn vị anh trai mình được quy tập về nghĩa trang Đồi A1, ông Nguyên tin rằng, anh trai mình vẫn ở đâu đó, tại nghĩa trang này cùng đồng đội. Về sau này, dù cuốn theo công việc, nhưng lòng ông vẫn đau đáu về Điện Biên. Một lần tìm trong bia một liệt sỹ có tên là Lê Văn Khôi, ông Nguyên cứ đinh ninh nhầm chữ lót.
Hai năm trước, trong dịp kỷ niệm 50 năm Điện Biên chiến thắng, người em trai Lê Đỗ Bình lên Điện Biên Phủ viếng mộ anh, thấy tên khang khác nên ông Bình đoán rằng ngôi mộ đó không phải của anh trai mình. Ông Bình vào Sở Lao động Thương Binh và Xã hội Điện Biên để tra sổ sách thì, liệt sỹ có tên Lê Văn Khôi không trùng quê quán với ông và ông tra tỷ mỉ trong cuốn sổ thì té ra, liệt sỹ Lê Đỗ Khôi cũng không có tên trong sổ trong khi vẫn lưu danh trong sổ của Cục Chính sách (Thuộc Tổng cục Chính trị) . Sau đó, ông Bình có thưa chuyện lại với ông Nguyên và làm tờ trình lên Cục Chính sách, Cục đã đề nghị Sở LĐ-TB&XH Điện Biên và vấn đề được giải quyết chỉ trong vòng 1 ngày. Trong giây phút Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào viếng nghĩa trang đồi A1, ông Nguyên đi cùng đoàn, nhìn lên tấm bia thấy tên anh trai mình, nét chữ thếp vàng còn mới tinh. Ông thấy mình được an ủi vì như vậy, anh trai mình đã được tìm, dù mới chỉ là dòng tên thôi…
Trước khi lễ Kỷ niệm 50 năm chiến thắng, Đài truyền hình có mời hai nhân chứng của Điện Biên tham gia giao lưu là đồng chí Hoàng Đăng Vinh, người từng tham gia bắt sống tướng Đờ Cát và đồng chí Lê Đỗ Nguyên. Ông Nguyên đã không nén nổi xúc động trong buổi giao lưu khi người dẫn chương trình hỏi ông về cảm tưởng lần trở lại Điện Biên này:
-Cảm tưởng của tôi lúc này là vui nhưng xen lẫn một nỗi buồn, một nỗi nhớ. Tôi vui vì lên Tây Bắc lần này thấy đời sống của đồng bào khá hơn nhiều, trong đó những người lính chúng tôi cũng đã góp được một phần nhỏ bé. Còn một nỗi nhớ không nguôi được, là nhớ về những chiến sỹ Điện Biên không còn có mặt trong ngày hôm nay, trong đó có anh trai tôi. Anh tôi ngã xuống trước chiến thắng chừng hai tiếng đồng hồ, và cách điểm cắm cờ chiến thắng có mấy trăm mét…
Một điều mà hôm nay ông Nguyên mới kể, là khi ông Khôi ngã xuống không biết cha mình đã chết. Còn ông Nguyên, mãi lần về tiếp quản Thủ đô, lại nhận thêm một tin sét đánh nữa là cha không còn!
Người anh trai thứ hai ấy-đồng chí Lê Đỗ Nguyên chắc không quá xa lạ với chúng ta, đó chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị-Quân đội nhân dân Việt Nam.
(Hoang Nguyen)
[CENTER]I am not here right now!
To the world you may be one person, but to one person you may be the world!
[/CENTER]
To the world you may be one person, but to one person you may be the world!

[/CENTER]
Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà
Nhạc sỹ: Phạm Duy
Phổ thơ Hữu Loan
[MP3]http://chieungason.com/Music2Listen/AoAnhSutChiDuongTa.mp3[/MP3]
Nàng có ba người anh đi bộ đội lâu rồi!
Nàng có đôi người em có em chưa biết nói
Tóc nàng hãy còn xanh, tóc nàng hãy còn xanh...
Tôi là người chiến binh xa gia đình đi kháng chiến
Tôi yêu nàng như yêu người em gái tôi yêu
Người em gái tôi yêu, người em gái tôi yêu.
Ngày hợp hôn tôi mặc đồ hành quân
Bùn đồng quê bết đôi giầy chến sĩ
Tôi mới từ xa nơi đơn vị về
Tôi mới từ xa nơi đơn vị về
Nàng cười vui bên anh chồng "kỳ khôi"
Thời loạn ly có ai cần áo cưới?
Cưới vừa xong là tôi đi.
Cưới vừa xong là tôi đi ...
Từ chốn xa xôi nhớ về ái ngại
Lấy chồng chiến binh mấy người trở lại?
Mà nhỡ khi mình không về
Thì thương người vợ, bé bỏng chiều quê.
Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
Hỡi ôi ! Hỡi ôi !
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ vàng
Chiếc bình hoa ngày cưới
Đã thành chiếc bình hương
Nhớ xưa em hiền hoà
Áo anh em viền tà
Nhớ người yêu mầu tím
Nhớ người yêu mầu sim!
Giờ phút lìa đời
Chẳng được nói một lời
Chẳng được ngó mặt người!
Nàng có ba người anh đi bộ đội lâu rồi!
Nàng có đôi người em, những em thơ sẽ lớn
Tóc nàng hãy còn xanh, tóc nàng hãy còn xanh
Ôi một chiều mưa rừng nơi chiến trường Đông Bắc
Ba người anh được tin người em gái thương đau
Và tin dữ đi mau, rồi tin cưới đi sau.
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt ...
Rồi mùa Thu trên những dòng sông
Những dòng sông, những dòng sông làn gió Thu sang
Gió rờn rợn trên mộ vàng
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đoàn quân, những đoàn quân và tiếng quân ca
Có lời nào ru ời ợi!
À ơi ! À ới ! Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu!
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim
Đồi tím hoa sim, đồi tím hoa sim
Đồi tím hoa sim, đồi tím hoa sim
Đồi tím hoa sim ...
Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà
Nền âm nhạc Việt Nam có rất nhiều những nhạc sĩ tên tuổi và cũng hàng ngàn đứa con tinh thần của các nhạc sĩ ấy cho đến ngày nay vẫn còn được vinh danh. Một trong những cây đại thụ trong nền âm nhạc Việt Nam - nhạc sĩ Phạm Duy với những tình khúc xuyên suốt hàng thập kỷ đã nuôi dưỡng biết bao tâm hồn người Việt. Và nói về những tình khúc mang nhiều cung bậc tình cảm nhất của nhạc sĩ, phải nhắc đến tác phẩm "Áo anh sứt chỉ đường tà" - một đại diện tiêu biểu không chỉ cho âm nhạc trữ tình Việt Nam mà còn phác thảo lại bức tranh Việt chân thực về tình yêu người chiến sĩ, tình cảm người hậu phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược.
"Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà", do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc năm 1970 từ bài thơ "Màu tím hoa sim" của nhà thơ Hữu Loan được sáng tác vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nhạc phẩm này trung thành với nguyên bản "Màu Tím Hoa Sim," tức là theo lối kể chuyện.
Bài hát là một câu chuyện buồn xuyên suốt mối tình lãng mạn nhưng cũng bi liệt giữa người thiếu nữ hậu phương và người chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Một người thiếu nữ "tóc xanh" đẹp mộng mơ lớn lên trong gia đình truyên thống cách mạng với "ba người anh đi bộ đội lâu rồi". Như những mối tình có hậu khác, nàng lấy chồng là anh "chiến binh xa gia đình đi kháng chiến". Nhưng thời chiến, nụ cười ngày cưới cũng không trọn vẹn, không áo cưới, không tuần trăng mật, đôi vợ chồng ấy xa lìa nhau cũng vì tiếng gọi đất nước kháng chiến. Lời hẹn thề không dám nói, những nghĩ suy cho nhau thấp thỏm theo từng tin chiến trận, mối tình ấy cũng như bao cuộc chia ly thời loạn bị thử thách qua hàng ngày chạy loạn bom dội nơi đồng quê, hàng đêm trắng bước chân hành quân mở đường cứu nước. Đến một ngày, tin dữ lại báo từ hậu phương ra nơi tiền tuyến, người vợ, người em gái quê nhà đã qua đời...
Việt Nam trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, có những tích truyện mang tầm vóc lịch sử hùng tráng, nhưng cũng có thể liệt kê ra những mẩu chuyện đầy tính nhân văn và tự hào dân tộc. Chất chứa trong những tấm lòng người Việt chịu thương chịu khó còn là tính nhẫn nhịn biết hi sinh vì nghĩa lớn cho tình yêu đất nước. Tính cách đó được thể hiện không ít qua rất nhiều tác phẩm thi nhạc và "Áo anh sứt chỉ đường tà" là một ví dụ điển hình. Trong bài hát có thể thấy được những con người đôn hậu, chất phác, những hoàn cảnh gia đình, những nhân vật thành viên mang đặc điểm dân tộc Việt thuần khiết.
Một chút trần thuật hóm hỉnh, một chút vận dụng kho tàng ca dao Việt Nam, lời bài hát tựa như lời kể của người trong cuộc, một người chiến sĩ yêu quê hương, yêu người vợ trẻ xa chồng vì nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong cách kể đó, dù nội dung phần kết câu chuyện rất thương đau và khiến người nghe xúc động, nhưng với những tiết tấu hành khúc mang âm hưởng trữ tình lãng mạn đã khiến cho cả câu chuyện và cũng là nhạc phẩm không rơi vào trạng thái bi lụy, sầu cảm.
Không chỉ dừng lại ở việc mô tả sâu sắc một câu chuyện tình buồn, nhạc phẩm còn thể hiện vẻ đẹp sáng trong những ca từ gợi nhiều hình ảnh và một lối diễn xướng tài tình trên nền nhạc nhịp hành khúc mang phong cách trữ tình tiêu biểu cho âm nhạc Việt Nam trong thời chiến. Và phải kể đến nhạc sỹ Phạm Duy như người sáng tạo nên những cảm xúc cho ca sĩ thể hiện để đem đến cho người nghe một chút bâng khuâng, nỗi lòng cảm thông và tự hào cho một lớp người đã hi sinh nhắm đến nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Tác phẩm được thể hiện qua rất nhiều giọng ca: Hiền Thục, Elvis Phương, qua tiếng đàn của nghệ sĩ Văn Vượng,.. nhưng nếu nghe ở đâu đó trong một phòng trà ở thành phố Hồ Chí Minh, Đức Tuấn trình bày live tác phẩm này, dù là người hiếm khi nghe "nhạc xưa" , ai đó sẽ không khỏi giật mình, "chắn chắn đây là một bài hát vàng đó chứ!"...
Nguồn: Bài hát vàng (Nhạc số)
Nhạc sỹ: Phạm Duy
Phổ thơ Hữu Loan
[MP3]http://chieungason.com/Music2Listen/AoAnhSutChiDuongTa.mp3[/MP3]
Nàng có ba người anh đi bộ đội lâu rồi!
Nàng có đôi người em có em chưa biết nói
Tóc nàng hãy còn xanh, tóc nàng hãy còn xanh...
Tôi là người chiến binh xa gia đình đi kháng chiến
Tôi yêu nàng như yêu người em gái tôi yêu
Người em gái tôi yêu, người em gái tôi yêu.
Ngày hợp hôn tôi mặc đồ hành quân
Bùn đồng quê bết đôi giầy chến sĩ
Tôi mới từ xa nơi đơn vị về
Tôi mới từ xa nơi đơn vị về
Nàng cười vui bên anh chồng "kỳ khôi"
Thời loạn ly có ai cần áo cưới?
Cưới vừa xong là tôi đi.
Cưới vừa xong là tôi đi ...
Từ chốn xa xôi nhớ về ái ngại
Lấy chồng chiến binh mấy người trở lại?
Mà nhỡ khi mình không về
Thì thương người vợ, bé bỏng chiều quê.
Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
Nhưng không chết người trai chiến sĩ
Mà chết người gái nhỏ miền xuôi
Hỡi ôi ! Hỡi ôi !
Tôi về không gặp nàng
Má ngồi bên mộ vàng
Chiếc bình hoa ngày cưới
Đã thành chiếc bình hương
Nhớ xưa em hiền hoà
Áo anh em viền tà
Nhớ người yêu mầu tím
Nhớ người yêu mầu sim!
Giờ phút lìa đời
Chẳng được nói một lời
Chẳng được ngó mặt người!
Nàng có ba người anh đi bộ đội lâu rồi!
Nàng có đôi người em, những em thơ sẽ lớn
Tóc nàng hãy còn xanh, tóc nàng hãy còn xanh
Ôi một chiều mưa rừng nơi chiến trường Đông Bắc
Ba người anh được tin người em gái thương đau
Và tin dữ đi mau, rồi tin cưới đi sau.
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt ...
Rồi mùa Thu trên những dòng sông
Những dòng sông, những dòng sông làn gió Thu sang
Gió rờn rợn trên mộ vàng
Chiều hành quân qua những đồi sim
Những đoàn quân, những đoàn quân và tiếng quân ca
Có lời nào ru ời ợi!
À ơi ! À ới ! Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chết sớm, mẹ già chưa khâu!
Những đồi sim, những đồi sim, đồi tím hoa sim
Đồi tím hoa sim, đồi tím hoa sim
Đồi tím hoa sim, đồi tím hoa sim
Đồi tím hoa sim ...
Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà
Nền âm nhạc Việt Nam có rất nhiều những nhạc sĩ tên tuổi và cũng hàng ngàn đứa con tinh thần của các nhạc sĩ ấy cho đến ngày nay vẫn còn được vinh danh. Một trong những cây đại thụ trong nền âm nhạc Việt Nam - nhạc sĩ Phạm Duy với những tình khúc xuyên suốt hàng thập kỷ đã nuôi dưỡng biết bao tâm hồn người Việt. Và nói về những tình khúc mang nhiều cung bậc tình cảm nhất của nhạc sĩ, phải nhắc đến tác phẩm "Áo anh sứt chỉ đường tà" - một đại diện tiêu biểu không chỉ cho âm nhạc trữ tình Việt Nam mà còn phác thảo lại bức tranh Việt chân thực về tình yêu người chiến sĩ, tình cảm người hậu phương trong cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược.
"Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà", do nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc năm 1970 từ bài thơ "Màu tím hoa sim" của nhà thơ Hữu Loan được sáng tác vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Nhạc phẩm này trung thành với nguyên bản "Màu Tím Hoa Sim," tức là theo lối kể chuyện.
Bài hát là một câu chuyện buồn xuyên suốt mối tình lãng mạn nhưng cũng bi liệt giữa người thiếu nữ hậu phương và người chiến sĩ ngoài tiền tuyến. Một người thiếu nữ "tóc xanh" đẹp mộng mơ lớn lên trong gia đình truyên thống cách mạng với "ba người anh đi bộ đội lâu rồi". Như những mối tình có hậu khác, nàng lấy chồng là anh "chiến binh xa gia đình đi kháng chiến". Nhưng thời chiến, nụ cười ngày cưới cũng không trọn vẹn, không áo cưới, không tuần trăng mật, đôi vợ chồng ấy xa lìa nhau cũng vì tiếng gọi đất nước kháng chiến. Lời hẹn thề không dám nói, những nghĩ suy cho nhau thấp thỏm theo từng tin chiến trận, mối tình ấy cũng như bao cuộc chia ly thời loạn bị thử thách qua hàng ngày chạy loạn bom dội nơi đồng quê, hàng đêm trắng bước chân hành quân mở đường cứu nước. Đến một ngày, tin dữ lại báo từ hậu phương ra nơi tiền tuyến, người vợ, người em gái quê nhà đã qua đời...
Việt Nam trải qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, có những tích truyện mang tầm vóc lịch sử hùng tráng, nhưng cũng có thể liệt kê ra những mẩu chuyện đầy tính nhân văn và tự hào dân tộc. Chất chứa trong những tấm lòng người Việt chịu thương chịu khó còn là tính nhẫn nhịn biết hi sinh vì nghĩa lớn cho tình yêu đất nước. Tính cách đó được thể hiện không ít qua rất nhiều tác phẩm thi nhạc và "Áo anh sứt chỉ đường tà" là một ví dụ điển hình. Trong bài hát có thể thấy được những con người đôn hậu, chất phác, những hoàn cảnh gia đình, những nhân vật thành viên mang đặc điểm dân tộc Việt thuần khiết.
Một chút trần thuật hóm hỉnh, một chút vận dụng kho tàng ca dao Việt Nam, lời bài hát tựa như lời kể của người trong cuộc, một người chiến sĩ yêu quê hương, yêu người vợ trẻ xa chồng vì nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Trong cách kể đó, dù nội dung phần kết câu chuyện rất thương đau và khiến người nghe xúc động, nhưng với những tiết tấu hành khúc mang âm hưởng trữ tình lãng mạn đã khiến cho cả câu chuyện và cũng là nhạc phẩm không rơi vào trạng thái bi lụy, sầu cảm.
Không chỉ dừng lại ở việc mô tả sâu sắc một câu chuyện tình buồn, nhạc phẩm còn thể hiện vẻ đẹp sáng trong những ca từ gợi nhiều hình ảnh và một lối diễn xướng tài tình trên nền nhạc nhịp hành khúc mang phong cách trữ tình tiêu biểu cho âm nhạc Việt Nam trong thời chiến. Và phải kể đến nhạc sỹ Phạm Duy như người sáng tạo nên những cảm xúc cho ca sĩ thể hiện để đem đến cho người nghe một chút bâng khuâng, nỗi lòng cảm thông và tự hào cho một lớp người đã hi sinh nhắm đến nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Tác phẩm được thể hiện qua rất nhiều giọng ca: Hiền Thục, Elvis Phương, qua tiếng đàn của nghệ sĩ Văn Vượng,.. nhưng nếu nghe ở đâu đó trong một phòng trà ở thành phố Hồ Chí Minh, Đức Tuấn trình bày live tác phẩm này, dù là người hiếm khi nghe "nhạc xưa" , ai đó sẽ không khỏi giật mình, "chắn chắn đây là một bài hát vàng đó chứ!"...
Nguồn: Bài hát vàng (Nhạc số)
[CENTER]I am not here right now!
To the world you may be one person, but to one person you may be the world!
[/CENTER]
To the world you may be one person, but to one person you may be the world!

[/CENTER]