by HSBD » Tue May 18, 2010 11:41 pm
Màu Tím Hoa Sim (Hữu Loan)
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu./
Sự thật về những người anh trong bài thơ "Màu tím hoa Sim"
Bài thơ "Màu tím hoa sim" ra đời đã hơn 50 năm, nhưng dư âm về một tình yêu thủy chung vẫn còn tươi mới đến hôm nay. Nhà thơ Hữu Loan đã nhiều lần kể về nhân vật người em gái trong bài thơ của ông, kể cả người chồng "tôi người vệ quốc quân, yêu nàng như tình yêu em gái" ấy
Và, cũng đã có lần nhà thơ loáng thoáng kể về ba người anh trai của nàng-ba nhân vật có thật ngoài cuộc đời. Tôi đã may mắn gặp được người anh trai thứ hai trong bài thơ, và được nghe ông kể về ký ức chiến tranh của anh em ông, đẹp, hào hùng nhưng cũng rất đau thương-nỗi đau không chỉ dừng lại ở “biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng”. Nhưng, họ đã vượt qua những nỗi đau riêng để vì việc nước. Xin gửi tới bạn đọc câu chuyện ấy.
1.Nàng, người con gái trong "Màu tím hoa sim" tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh, con thứ tư trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng ở huyện Đông Sơn (cũ) thuộc tỉnh Thanh Hóa. Cha nàng tên là Lê Đỗ Kỳ, từng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến một xã ở huyện Đông Sơn, và cũng là một trong những đại biểu Quốc hội khóa I của Thanh Hóa, còn mẹ nàng là một người nuôi dấu bộ đội trong những năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ. Chồng nàng-nhà thơ Hữu Loan là một trong số "anh bộ đội” được mẹ nàng nuôi nấng và được gia đình coi như một thành viên.
Trước Cách mạng Tháng Tám, cụ Lê Đỗ Kỳ là một chuyên viên canh nông, chuyên về các cây công nghiệp ở Bến Cát (Bình Dương). Nàng và các anh nàng từng sinh sống ở mảnh đất này, sau này cha nàng chuyển công tác ra Viện nghiên cứu nông nghịêp ở Hà Nội. Chính vì sống ở phương Nam nên họ gọi cha mẹ là "ba, má", nên trong bài thơ có câu "má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối" là vậy.
Gia đình nàng có đến 8 người con, sau nàng còn có 3 người em trai tên là Lê Đỗ Khang, Lê Đỗ Bình, Lê Đỗ Thái và một em gái út tên là Lê Đỗ Như Ý. Trước khi nàng mất, Như Ý còn chưa biết nói như trong một câu thơ của "Màu tím hoa sim". Bây giờ, Như Ý là một giáo viên đã nghỉ hưu ở Hà Nội. Còn 3 người anh trai trước nàng, thực ra chỉ có 2 người anh đi bộ đội. Người anh trai thứ ba là Lê Đỗ An, chưa từng đi bộ đội ngày nào. Nhưng theo truyền thống gia đình, ông hoạt động cách mạng từ rất sớm với tên bí danh là Nguyễn Tiên Phong. Trong kháng chiến chống Mỹ ông từng là Bí thư Trung ương Đoàn sau đó từng giữ chức Phó Ban dân vận Trung ương.
Nhà thơ Hữu Loan từng là thầy dạy kèm về văn hóa cho 3 người anh trai của nàng, và cả nàng nữa, khi các anh nàng còn học ở Thanh Hóa. Tuy là "em rể" nhưng 3 người anh nàng luôn coi Hữu Loan như anh trai của mình. Ấn tượng về Hữu Loan trong ký ức của người anh thứ hai như thế này: "Anh ấy kiến thức rộng, tính ngay thẳng. Anh em chúng tôi học được rất nhiều điều ở anh, nhất là sự thẳng thắn và đặc biệt là tình yêu văn học".
Ở các trường phổ thông, kể cả trường Đại học, một số thầy cô vẫn thường so sánh hành ảnh của 3 người con gái trong 3 bài thơ "Núi đôi" (Vũ Cao), Quê hương (Giang Nam) và "Màu tím hoa sim", thậm chí, có người còn so sánh cả…cái chết để tìm ra điểm tương đồng. Trong hai bài thơ kia, hai cô gái là hai nữ du kích bị giặc giết hại. Còn cô gái của "Màu tím hoa sim", chết trong một lần bị sảy chân xuống dòng sông Nông Giang ở quê nhà khi nàng đi giặt, và nhà thơ Hữu Loan từng nhắc về cái chết ấy qua một hình ảnh rất gợi "gió sớm thu về gờn gợn nước sông". Dòng sông này, một lần nữa lại cướp đi người cha của nàng trong một lần ông về quê nghỉ phép. Nói chuyện chết chóc, để càng hiểu hơn những hy sinh thầm lặng của những người chiến sỹ của chúng ta một thời bên cạnh những gian nan vất vả mà họ từng phải nếm trải, trong đó có chồng người con gái ấy và cả các anh của nàng nữa.
2. Người anh của của nàng tên là Lê Đỗ Khôi, từng là một chiến sỹ Điện Biên, có mặt suốt 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm. Sau một thời gian học ở Thanh Hóa, ông Khôi chuyển ra trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An-Hà Nội) để học tập. Khí thế cách mạng hừng hực trong trái tim tuổi trẻ một thời, đặc biệt sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, ông trốn học về Thanh Hóa tham gia tiền khởi nghĩa, sau đó ông ra Hà Nội và vào Quân đội. Ông từng là chiến sỹ pháo binh của pháo đài Xuân Tảo (pháo đài Xuân Tảo và pháo đài Láng là hai pháo đài nổ súng bắn vào Hà Nội, mở đầu kháng chiến toàn quốc ngày 19-12-1946). Năm 1950, ông là Chính trị viên của Tiểu đoàn 115, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị ông đánh vào cứ điểm 105 phía Bắc sân bay Mường Thanh. Trong đợt tổng công kích, đơn vị đánh dọc theo sông Nậm Rốm vào cứ điểm 506, để tiến lên đánh cầu sắt Mường Thanh.
Trận đánh này, trong cuốn “Điện Biên Phủ”, trang 185, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: "Trong khi ấy, tại cứ điểm 506 và 507, dưới chân dãy đồi cao phía Đông, cuộc chiến đấu của các Trung đoàn 165 và 209 thuộc Đại đoàn 312 cũng diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Tại 506, sau khi vào bên trong cứ điểm, quân ta đã đánh bại 10 cuộc phản kích của địch. Đến 9 giờ sáng ngày 7-5-1954, được tăng cường lực lượng và hỏa lực, Trung đoàn 165 đã mở cuộc tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch, chiếm lĩnh cứ điểm 506”.
14 giờ ngày 7-5, một đơn vị của ta mở cuộc tấn công vào vị trí 507 ở gần cầu sắt Mường Thanh. Địch đối phó yếu ớt, toàn bộ binh lính địch kéo cờ trắng ra hàng. Sau 14 giờ, địch ném bom vào vị trí 506 hòng chặn hướng tấn công của lực lượng ta. Đồng chí Lê Đỗ Khôi bị thương nặng. Trên đường cáng thương ông ra phía đồi Him Lam, một trận bom nữa xối xuống con đường đó, vào khoảng 15 giờ 30. Ông Khôi và một số đồng đội nằm lại vĩnh viễn với đất đá Điện Biên từ thời khắc ấy, trước giờ phút lịch sử chấn động địa cầu khoảng 2 tiếng đồng hồ!
Trước khi lên đường nhập ngũ, đồng chí Lê Đỗ Khôi có ước hẹn với một người con gái Hà Nội. Sau ngày về tiếp quản Thủ đô, người con gái ấy tìm trong những người lính trở về người mình từng hẹn ước. Khi biết sự thật, cô im lặng…Cô hiểu Điện Biên Phủ và cái giá của chiến thắng. Bao nhiêu năm sau cô nhất định không chịu đi lấy chồng, sống trong sự chống chếnh bởi những mất mát. Sau đó, đồng đội của đồng chí Khôi thuyết phục, cô mới chịu nghĩ đến hạnh phúc của riêng mình…
3. Người anh trai thứ hai của nàng tên là Lê Đỗ Nguyên, cũng là một chiến sỹ Điện Biên, và trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông là Phó Chính ủy Trung đoàn 36, Đại đoàn 308. Trong những tháng ngày chinh chiến ở chiến trường Đông Bắc để chuẩn bị tiến lên Điện Biên, ông Nguyên và anh trai ông nhận được tin đau buồn về cái chết của người em gái từ một người bạn học. Đồng chí ấy báo tin em gái ông mất trước khi cho ông biết em gái ông đã lấy nhà thơ Hữu Loan, hoàn cảnh rất đúng như trong bài "Màu tím hoa sim" (Biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng). Hai người anh nén nỗi niềm riêng để dồn tinh thần cho cuộc kháng chiến đang dần về đích. Trước khi vào chiến dịch Điện Biên Phủ, hai anh em có dịp được gặp nhau và hẹn nhau sẽ tiếp tục gặp lại trong ngày chiến thắng. Sau chiến thắng, trong tiếng quân reo hò, ông Nguyên đi tìm anh như lời hẹn trước khi vào trận. Ông mải miết tìm hết nơi này sang nơi khác, nhưng giữa bao chiến sỹ, không thấy bóng dáng anh trai mình. Đến ngày đơn vị ông được lệnh rút khỏi Điện Biên Phủ, ông được gặp một người bạn học cũ ở trường Bưởi, người bạn báo tin rằng anh trai ông đã hy sinh…
Ông Nguyên quay lại địa điểm anh mình hy sinh theo thông tin từ nhiều người, không thấy bất cứ một thi hài nào mà toàn là hố bom, vết thương trong lòng đất đá còn rất mới. Về sau này, hài cốt các liệt sỹ của đơn vị anh trai mình được quy tập về nghĩa trang Đồi A1, ông Nguyên tin rằng, anh trai mình vẫn ở đâu đó, tại nghĩa trang này cùng đồng đội. Về sau này, dù cuốn theo công việc, nhưng lòng ông vẫn đau đáu về Điện Biên. Một lần tìm trong bia một liệt sỹ có tên là Lê Văn Khôi, ông Nguyên cứ đinh ninh nhầm chữ lót.
Hai năm trước, trong dịp kỷ niệm 50 năm Điện Biên chiến thắng, người em trai Lê Đỗ Bình lên Điện Biên Phủ viếng mộ anh, thấy tên khang khác nên ông Bình đoán rằng ngôi mộ đó không phải của anh trai mình. Ông Bình vào Sở Lao động Thương Binh và Xã hội Điện Biên để tra sổ sách thì, liệt sỹ có tên Lê Văn Khôi không trùng quê quán với ông và ông tra tỷ mỉ trong cuốn sổ thì té ra, liệt sỹ Lê Đỗ Khôi cũng không có tên trong sổ trong khi vẫn lưu danh trong sổ của Cục Chính sách (Thuộc Tổng cục Chính trị) . Sau đó, ông Bình có thưa chuyện lại với ông Nguyên và làm tờ trình lên Cục Chính sách, Cục đã đề nghị Sở LĐ-TB&XH Điện Biên và vấn đề được giải quyết chỉ trong vòng 1 ngày. Trong giây phút Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào viếng nghĩa trang đồi A1, ông Nguyên đi cùng đoàn, nhìn lên tấm bia thấy tên anh trai mình, nét chữ thếp vàng còn mới tinh. Ông thấy mình được an ủi vì như vậy, anh trai mình đã được tìm, dù mới chỉ là dòng tên thôi…
Trước khi lễ Kỷ niệm 50 năm chiến thắng, Đài truyền hình có mời hai nhân chứng của Điện Biên tham gia giao lưu là đồng chí Hoàng Đăng Vinh, người từng tham gia bắt sống tướng Đờ Cát và đồng chí Lê Đỗ Nguyên. Ông Nguyên đã không nén nổi xúc động trong buổi giao lưu khi người dẫn chương trình hỏi ông về cảm tưởng lần trở lại Điện Biên này:
-Cảm tưởng của tôi lúc này là vui nhưng xen lẫn một nỗi buồn, một nỗi nhớ. Tôi vui vì lên Tây Bắc lần này thấy đời sống của đồng bào khá hơn nhiều, trong đó những người lính chúng tôi cũng đã góp được một phần nhỏ bé. Còn một nỗi nhớ không nguôi được, là nhớ về những chiến sỹ Điện Biên không còn có mặt trong ngày hôm nay, trong đó có anh trai tôi. Anh tôi ngã xuống trước chiến thắng chừng hai tiếng đồng hồ, và cách điểm cắm cờ chiến thắng có mấy trăm mét…
Một điều mà hôm nay ông Nguyên mới kể, là khi ông Khôi ngã xuống không biết cha mình đã chết. Còn ông Nguyên, mãi lần về tiếp quản Thủ đô, lại nhận thêm một tin sét đánh nữa là cha không còn!
Người anh trai thứ hai ấy-đồng chí Lê Đỗ Nguyên chắc không quá xa lạ với chúng ta, đó chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị-Quân đội nhân dân Việt Nam.
(Hoang Nguyen)
[b][size=134]Màu Tím Hoa Sim[/size][/b] (Hữu Loan)
Nàng có ba người anh
Đi bộ đội
Những em nàng còn chưa biết nói
Khi tóc nàng xanh xanh.
Tôi là người chiến binh
Xa gia đình
Yêu nàng như tình yêu em gái
Ngày hợp hôn nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân
Đôi giày đinh bết bùn đất hành quân,
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về
Cưới nhau xong là đi!
Từ chiến khu xa
Nhớ về ái ngại
Lấy chồng đời chiến chinh
Mấy người đi trở lại
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ
Bé bỏng chiều quê ...
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con
Đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương
Tàn lạnh vây quanh ...
Tóc nàng xanh xanh
Ngắn chưa đầy búi
Em ơi!
Giây phút cuối
Không được nghe nhau nói
Không được trông thấy nhau một lần.
Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím
áo nàng màu tím hoa sim
Ngày xưa một mình
đèn khuya
bóng nhỏ
Nàng vá cho chồng tấm áo
ngày xưa...
Một chiều rừng mưa
Ba người anh
Trên chiến trường Đông Bắc,
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng.
Gió sớm thu về
Rờn rợn nước sông
Đứa em nhỏ lớn lên
Ngỡ ngàng nhìn ảnh chị
Khi gió thu về
Cỏ vàng chân mộ chí.
Chiều hành quân
Qua những đồi sim ..
Những đồi hoa sim ...,
Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt
Nhìn áo rách vai
Tôi hát trong màu hoa.
Áo tôi sứt chỉ đường tà,
Vợ tôi chết sớm mẹ già chưa khâu./
[b]Sự thật về những người anh trong bài thơ "Màu tím hoa Sim" [/b]
Bài thơ "Màu tím hoa sim" ra đời đã hơn 50 năm, nhưng dư âm về một tình yêu thủy chung vẫn còn tươi mới đến hôm nay. Nhà thơ Hữu Loan đã nhiều lần kể về nhân vật người em gái trong bài thơ của ông, kể cả người chồng "tôi người vệ quốc quân, yêu nàng như tình yêu em gái" ấy
Và, cũng đã có lần nhà thơ loáng thoáng kể về ba người anh trai của nàng-ba nhân vật có thật ngoài cuộc đời. Tôi đã may mắn gặp được người anh trai thứ hai trong bài thơ, và được nghe ông kể về ký ức chiến tranh của anh em ông, đẹp, hào hùng nhưng cũng rất đau thương-nỗi đau không chỉ dừng lại ở “biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng”. Nhưng, họ đã vượt qua những nỗi đau riêng để vì việc nước. Xin gửi tới bạn đọc câu chuyện ấy.
1.Nàng, người con gái trong "Màu tím hoa sim" tên thật là Lê Đỗ Thị Ninh, con thứ tư trong một gia đình giàu truyền thống cách mạng ở huyện Đông Sơn (cũ) thuộc tỉnh Thanh Hóa. Cha nàng tên là Lê Đỗ Kỳ, từng làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến một xã ở huyện Đông Sơn, và cũng là một trong những đại biểu Quốc hội khóa I của Thanh Hóa, còn mẹ nàng là một người nuôi dấu bộ đội trong những năm kháng chiến chống Pháp trường kỳ. Chồng nàng-nhà thơ Hữu Loan là một trong số "anh bộ đội” được mẹ nàng nuôi nấng và được gia đình coi như một thành viên.
Trước Cách mạng Tháng Tám, cụ Lê Đỗ Kỳ là một chuyên viên canh nông, chuyên về các cây công nghiệp ở Bến Cát (Bình Dương). Nàng và các anh nàng từng sinh sống ở mảnh đất này, sau này cha nàng chuyển công tác ra Viện nghiên cứu nông nghịêp ở Hà Nội. Chính vì sống ở phương Nam nên họ gọi cha mẹ là "ba, má", nên trong bài thơ có câu "má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối" là vậy.
Gia đình nàng có đến 8 người con, sau nàng còn có 3 người em trai tên là Lê Đỗ Khang, Lê Đỗ Bình, Lê Đỗ Thái và một em gái út tên là Lê Đỗ Như Ý. Trước khi nàng mất, Như Ý còn chưa biết nói như trong một câu thơ của "Màu tím hoa sim". Bây giờ, Như Ý là một giáo viên đã nghỉ hưu ở Hà Nội. Còn 3 người anh trai trước nàng, thực ra chỉ có 2 người anh đi bộ đội. Người anh trai thứ ba là Lê Đỗ An, chưa từng đi bộ đội ngày nào. Nhưng theo truyền thống gia đình, ông hoạt động cách mạng từ rất sớm với tên bí danh là Nguyễn Tiên Phong. Trong kháng chiến chống Mỹ ông từng là Bí thư Trung ương Đoàn sau đó từng giữ chức Phó Ban dân vận Trung ương.
Nhà thơ Hữu Loan từng là thầy dạy kèm về văn hóa cho 3 người anh trai của nàng, và cả nàng nữa, khi các anh nàng còn học ở Thanh Hóa. Tuy là "em rể" nhưng 3 người anh nàng luôn coi Hữu Loan như anh trai của mình. Ấn tượng về Hữu Loan trong ký ức của người anh thứ hai như thế này: "Anh ấy kiến thức rộng, tính ngay thẳng. Anh em chúng tôi học được rất nhiều điều ở anh, nhất là sự thẳng thắn và đặc biệt là tình yêu văn học".
Ở các trường phổ thông, kể cả trường Đại học, một số thầy cô vẫn thường so sánh hành ảnh của 3 người con gái trong 3 bài thơ "Núi đôi" (Vũ Cao), Quê hương (Giang Nam) và "Màu tím hoa sim", thậm chí, có người còn so sánh cả…cái chết để tìm ra điểm tương đồng. Trong hai bài thơ kia, hai cô gái là hai nữ du kích bị giặc giết hại. Còn cô gái của "Màu tím hoa sim", chết trong một lần bị sảy chân xuống dòng sông Nông Giang ở quê nhà khi nàng đi giặt, và nhà thơ Hữu Loan từng nhắc về cái chết ấy qua một hình ảnh rất gợi "gió sớm thu về gờn gợn nước sông". Dòng sông này, một lần nữa lại cướp đi người cha của nàng trong một lần ông về quê nghỉ phép. Nói chuyện chết chóc, để càng hiểu hơn những hy sinh thầm lặng của những người chiến sỹ của chúng ta một thời bên cạnh những gian nan vất vả mà họ từng phải nếm trải, trong đó có chồng người con gái ấy và cả các anh của nàng nữa.
2. Người anh của của nàng tên là Lê Đỗ Khôi, từng là một chiến sỹ Điện Biên, có mặt suốt 56 ngày đêm khoét núi ngủ hầm. Sau một thời gian học ở Thanh Hóa, ông Khôi chuyển ra trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An-Hà Nội) để học tập. Khí thế cách mạng hừng hực trong trái tim tuổi trẻ một thời, đặc biệt sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, ông trốn học về Thanh Hóa tham gia tiền khởi nghĩa, sau đó ông ra Hà Nội và vào Quân đội. Ông từng là chiến sỹ pháo binh của pháo đài Xuân Tảo (pháo đài Xuân Tảo và pháo đài Láng là hai pháo đài nổ súng bắn vào Hà Nội, mở đầu kháng chiến toàn quốc ngày 19-12-1946). Năm 1950, ông là Chính trị viên của Tiểu đoàn 115, Trung đoàn 165, Đại đoàn 312. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị ông đánh vào cứ điểm 105 phía Bắc sân bay Mường Thanh. Trong đợt tổng công kích, đơn vị đánh dọc theo sông Nậm Rốm vào cứ điểm 506, để tiến lên đánh cầu sắt Mường Thanh.
Trận đánh này, trong cuốn “Điện Biên Phủ”, trang 185, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã viết: "Trong khi ấy, tại cứ điểm 506 và 507, dưới chân dãy đồi cao phía Đông, cuộc chiến đấu của các Trung đoàn 165 và 209 thuộc Đại đoàn 312 cũng diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Tại 506, sau khi vào bên trong cứ điểm, quân ta đã đánh bại 10 cuộc phản kích của địch. Đến 9 giờ sáng ngày 7-5-1954, được tăng cường lực lượng và hỏa lực, Trung đoàn 165 đã mở cuộc tiến công tiêu diệt toàn bộ quân địch, chiếm lĩnh cứ điểm 506”.
14 giờ ngày 7-5, một đơn vị của ta mở cuộc tấn công vào vị trí 507 ở gần cầu sắt Mường Thanh. Địch đối phó yếu ớt, toàn bộ binh lính địch kéo cờ trắng ra hàng. Sau 14 giờ, địch ném bom vào vị trí 506 hòng chặn hướng tấn công của lực lượng ta. Đồng chí Lê Đỗ Khôi bị thương nặng. Trên đường cáng thương ông ra phía đồi Him Lam, một trận bom nữa xối xuống con đường đó, vào khoảng 15 giờ 30. Ông Khôi và một số đồng đội nằm lại vĩnh viễn với đất đá Điện Biên từ thời khắc ấy, trước giờ phút lịch sử chấn động địa cầu khoảng 2 tiếng đồng hồ!
Trước khi lên đường nhập ngũ, đồng chí Lê Đỗ Khôi có ước hẹn với một người con gái Hà Nội. Sau ngày về tiếp quản Thủ đô, người con gái ấy tìm trong những người lính trở về người mình từng hẹn ước. Khi biết sự thật, cô im lặng…Cô hiểu Điện Biên Phủ và cái giá của chiến thắng. Bao nhiêu năm sau cô nhất định không chịu đi lấy chồng, sống trong sự chống chếnh bởi những mất mát. Sau đó, đồng đội của đồng chí Khôi thuyết phục, cô mới chịu nghĩ đến hạnh phúc của riêng mình…
3. Người anh trai thứ hai của nàng tên là Lê Đỗ Nguyên, cũng là một chiến sỹ Điện Biên, và trong chiến dịch Điện Biên Phủ ông là Phó Chính ủy Trung đoàn 36, Đại đoàn 308. Trong những tháng ngày chinh chiến ở chiến trường Đông Bắc để chuẩn bị tiến lên Điện Biên, ông Nguyên và anh trai ông nhận được tin đau buồn về cái chết của người em gái từ một người bạn học. Đồng chí ấy báo tin em gái ông mất trước khi cho ông biết em gái ông đã lấy nhà thơ Hữu Loan, hoàn cảnh rất đúng như trong bài "Màu tím hoa sim" (Biết tin em gái mất, trước tin em lấy chồng). Hai người anh nén nỗi niềm riêng để dồn tinh thần cho cuộc kháng chiến đang dần về đích. Trước khi vào chiến dịch Điện Biên Phủ, hai anh em có dịp được gặp nhau và hẹn nhau sẽ tiếp tục gặp lại trong ngày chiến thắng. Sau chiến thắng, trong tiếng quân reo hò, ông Nguyên đi tìm anh như lời hẹn trước khi vào trận. Ông mải miết tìm hết nơi này sang nơi khác, nhưng giữa bao chiến sỹ, không thấy bóng dáng anh trai mình. Đến ngày đơn vị ông được lệnh rút khỏi Điện Biên Phủ, ông được gặp một người bạn học cũ ở trường Bưởi, người bạn báo tin rằng anh trai ông đã hy sinh…
Ông Nguyên quay lại địa điểm anh mình hy sinh theo thông tin từ nhiều người, không thấy bất cứ một thi hài nào mà toàn là hố bom, vết thương trong lòng đất đá còn rất mới. Về sau này, hài cốt các liệt sỹ của đơn vị anh trai mình được quy tập về nghĩa trang Đồi A1, ông Nguyên tin rằng, anh trai mình vẫn ở đâu đó, tại nghĩa trang này cùng đồng đội. Về sau này, dù cuốn theo công việc, nhưng lòng ông vẫn đau đáu về Điện Biên. Một lần tìm trong bia một liệt sỹ có tên là Lê Văn Khôi, ông Nguyên cứ đinh ninh nhầm chữ lót.
Hai năm trước, trong dịp kỷ niệm 50 năm Điện Biên chiến thắng, người em trai Lê Đỗ Bình lên Điện Biên Phủ viếng mộ anh, thấy tên khang khác nên ông Bình đoán rằng ngôi mộ đó không phải của anh trai mình. Ông Bình vào Sở Lao động Thương Binh và Xã hội Điện Biên để tra sổ sách thì, liệt sỹ có tên Lê Văn Khôi không trùng quê quán với ông và ông tra tỷ mỉ trong cuốn sổ thì té ra, liệt sỹ Lê Đỗ Khôi cũng không có tên trong sổ trong khi vẫn lưu danh trong sổ của Cục Chính sách (Thuộc Tổng cục Chính trị) . Sau đó, ông Bình có thưa chuyện lại với ông Nguyên và làm tờ trình lên Cục Chính sách, Cục đã đề nghị Sở LĐ-TB&XH Điện Biên và vấn đề được giải quyết chỉ trong vòng 1 ngày. Trong giây phút Đại tướng Võ Nguyên Giáp vào viếng nghĩa trang đồi A1, ông Nguyên đi cùng đoàn, nhìn lên tấm bia thấy tên anh trai mình, nét chữ thếp vàng còn mới tinh. Ông thấy mình được an ủi vì như vậy, anh trai mình đã được tìm, dù mới chỉ là dòng tên thôi…
Trước khi lễ Kỷ niệm 50 năm chiến thắng, Đài truyền hình có mời hai nhân chứng của Điện Biên tham gia giao lưu là đồng chí Hoàng Đăng Vinh, người từng tham gia bắt sống tướng Đờ Cát và đồng chí Lê Đỗ Nguyên. Ông Nguyên đã không nén nổi xúc động trong buổi giao lưu khi người dẫn chương trình hỏi ông về cảm tưởng lần trở lại Điện Biên này:
-Cảm tưởng của tôi lúc này là vui nhưng xen lẫn một nỗi buồn, một nỗi nhớ. Tôi vui vì lên Tây Bắc lần này thấy đời sống của đồng bào khá hơn nhiều, trong đó những người lính chúng tôi cũng đã góp được một phần nhỏ bé. Còn một nỗi nhớ không nguôi được, là nhớ về những chiến sỹ Điện Biên không còn có mặt trong ngày hôm nay, trong đó có anh trai tôi. Anh tôi ngã xuống trước chiến thắng chừng hai tiếng đồng hồ, và cách điểm cắm cờ chiến thắng có mấy trăm mét…
Một điều mà hôm nay ông Nguyên mới kể, là khi ông Khôi ngã xuống không biết cha mình đã chết. Còn ông Nguyên, mãi lần về tiếp quản Thủ đô, lại nhận thêm một tin sét đánh nữa là cha không còn!
Người anh trai thứ hai ấy-đồng chí Lê Đỗ Nguyên chắc không quá xa lạ với chúng ta, đó chính là Trung tướng Phạm Hồng Cư, nguyên phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị-Quân đội nhân dân Việt Nam.
(Hoang Nguyen)