Page 1 of 1

Ngày xưa dùng chiến tranh, ngày nay dùng ODA

Posted: Sun Aug 08, 2010 11:43 pm
by SrFlorentino
Hỗ trợ phát triển chính thức (Hay ODA- viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là “hỗ trợ” bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là “phát triển” vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước đầu tư. Gọi là “chính thức”, vì nó thường là cho Nhà nước vay.

Sát thủ kinh tế mang tên ODA


Có người gọi ODA theo đúng cái tên cả nó là “hỗ trợ phát triển chính thức”, nhưng cũng có người coi nó như một kiểu xuất khẩu tư bản dã man nhất của thế giới đương đại. Hai cách nhìn chưa ai ngã ngũ, nhưng rõ ràng có người uống thuốc bổ mà chết, nhưng lại cũng có người uống thuốc đắng mà khỏi được bệnh.

“Lòng nhân ái” của người cho vay


Có đọc cuốn: “Lời thú tội của một sát thủ kinh tế” của tác giả John Perkins mới hiểu được vì sao một cá nhân như ông lại có thể thuyết phục lần lượt được các chính phủ từ châu Mỹ Latinh đến Đông Nam Á, rồi trải qua Trung Đông lao theo những dự án “giả dối” nhằm phục vụ lợi ích tư bản Mỹ.

Hỗ trợ phát triển chính thức (Hay ODA- viết tắt của cụm từ Official Development Assistance), là một hình thức đầu tư nước ngoài. Gọi là “hỗ trợ” bởi vì các khoản đầu tư này thường là các khoản cho vay không lãi suất hoặc lãi suất thấp với thời gian vay dài. Đôi khi còn gọi là viện trợ. Gọi là “phát triển” vì mục tiêu danh nghĩa của các khoản đầu tư này là phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi ở nước đầu tư. Gọi là “chính thức”, vì nó thường là cho Nhà nước vay.

Qua thực tế hoạt động của các dự án ODA ở các nước trên thế giới, có thể thấy trên “bề mặt” của hiện tượng, ODA đã mang lại nhiều, và nhiều lắm các lợi ích cho những nước “nghèo” được sử dụng nó. Nào là lãi suất thấp, thời hạn vay dài, nào là có kèm theo những gói viện trợ không hoàn lại (nghĩa là cho không)… Không những thế, bản thân quốc gia cấp tín dụng ODA cũng rất tự hào về những “cống hiến” của dân tộc họ đối với thế giới, về tính “cao thượng” của những dân tộc nghĩa hiệp, v.v…

Cuốn sách có tên “ODA- có thể làm gì với tư cách là Nhật Bản” của tác giả Miura Yuuji, Watanabe Tosio, ấn hành năm 2003 đã bảo vệ tính vô tư của viện trợ ODA và cho rằng điều đó thể hiện ở chỗ “lực lượng xây dựng các dự án ODA rất đa dạng, không chỉ có các công ty Nhật mà còn có cả chính phủ nước được viện trợ, ngân hàng, JICA (Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản), các tổ chức và quố gia tài trợ khác, thậm chí cả các công ty tư vấn không thuộc Nhật Bản cùng tham gia”… nghĩa là ODA vận hành trong xã hội mở, mang tính quốc tế hóa.

“Tội nghiệp” cho người đi vay, sao có thể nghi ngờ được tính ưu ái của người cho vay với người đi vay được. Ấy thế mà cũng chính người Nhật chứ không phải ai khác đã viết hai cuốn sách cho chúng ta câu trả lời.

Thứ nhất là cuốn “Sự thật viện trợ ODA” của tác giả Sumi Kazuo, một Giáo sư trường Đại học Yokohama. Ông đã dẫn dắt người đọc lần theo đường đi nước bước của dòng chảy ODA thông qua những trường hợp cụ thể: Giữa những năm 70 của thế kỷ XX, ngành sản xuất nhôm của Nhật bắt đầu gặp khó khăn, chính phủ Nhật bắt đầu gặp khó khăn, Chính phủ Nhật lập tức xây dựng dự án viện trợ ODA cho Indonesia trong lĩnh vực khai thác nguyên liệu SX nhôm trên đảo Sumatra. Mục đích của nó không chỉ là “hợp tác quốc tế”, mà còn là nhằm “đầu tư để xác lập thế trận bảo vệ có tính chiến lược đối với nguyên liệu nhôm của đất nước chúng ta”. Và như những phân tích của giáo sư, “binh pháp” của ODA là nhằm tạo ra và duy trì một “nhu cầu viện trợ giả tạo”, hướng đến “lợi nhuận cho doanh nghiệp Nhật Bản”, và “ đưa ô nhiễm của Nhật Bản ra nước ngoài”.

Thứ hai là cuốn của một tập thể nhiều tác giả có tên “ODA- vì cuộc sống của người Nhật Bản” do nhà xuất bản Komonzo ấn hành năm 1999. Sau 10 năm theo đuổi đề tài nghiên cứu về bản chất ODA, các tác giả đã thu thập được khá nhiều tài liệu, số liệu, hình ảnh…, và cuối cùng đã chỉ ra rằng, đằng sau những lời lẽ ngoại giao mỹ miều về cái gọi là hỗ trợ phát triển chính thức, ODA chính là một thứ vũ khí kinh tế đặc biệt lợi hại, mà cuốn sách đã khái quát bằng câu: Ngày xưa chúng ta dùng chiến tranh, ngày nay chúng ta dùng ODA.

Ngay như tác giả Miura Yuuji, theo quan điểm bảo vệ mặt tích cực của ODA, cũng đã thừa nhận thời kỳ cuối những năm 50 của thế kỷ XX “… việc dùng ODA như một hình thức bảo hộ lợi nhuận của các công ty Nhật là sự biểu lộ rõ ràng của ý thức quốc gia". Những dẫn chứng sống động Không sai khi nói, nếu những nước cần vốn có “chiến lược nợ” của mình, thì các nước giàu cũng có “chiến lược cho vay” của họ.

Quả vậy, ODA thường xuất phát từ nhu cầu của nước cho vay trước. Chẳng hạn, người Nhật tiêu thụ giấy thứ tư thế giới (trung bình 245kg giấy/người/năm), ngành Công nghiệp giất của Nhật sản xuất 3000 vạn tấn giấy/năm (số liệu năm 1996).

Tuy vậy, từ những năm 1980, chính sách bảo vê môi trường ra đời đã xiết chặt việc khai thác rừng trong nước, các doanh nghiệp giấy Nhật bắt đầu hướng ra nước ngoài mua gỗ bạch đàn. JICA đã nhìn thấy “tiềm năng” đó tại vùng Đông- Bắc Thái Lan. Từ tháng 4- 1992 đến tháng 3- 1997, tại đây đã triển khai dự án ODA về trồn rừng có tên là “Hợp tác với quốc tế vì màu xanh”. Trong bối cảnh thời đó ở Thái Lan, dân số tăng nhanh, đất nông nghiệp được mở rộng, nhu cầu gỗ phát triển, cho nên vùng Đông Bắc Thái Lan tỷ lệ che phủ rừng đã giảm nhanh từ 40% năm 1961 xuống còn 14% cuối những năm 80 thế kỷ XX. Chính phủ nào nỡ từ bỏ một cơ hội tốt như vậy!

Nhưng người Thái Lan chỉ nhận ra “cái bẫy” của nó sau khi dự án được triển khai 7 năm, khi mà không còn có thể tưởng tượng rằng vùng Đông- Bắc Thái Lan từng là “vương quốc của rừng” nữa. Bốn trung tâm sản xuất cây giống đã phát miễn phí một trăm triệu cây giống cho nông dân Thái Lan để họ tự trồng rừng. Khi cả một vùng rộng lớn toàn bạch đàn, thì giá bạch đàn vô cùng rẻ, nguồn nước và nguồn dinh dưỡng của đất bị hủy hoạt nghiêm trọng. Bên cạnh đó, lợi ích kinh tế trước mắt đã làm cho diện tích rừng bạch đàn tăng vọt và diện tích rừng tự nhiên tất yếu bị hủy hoại.

Một câu chuyện khác là, cùng với sự phục hưng kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh, “nền sản xuất số lượng lớn” và “xã hội tiêu thụ với số lượng lớn” sẽ không thể đứng vững nếu không có một quá trình “tiêu hủy rác thải số lượng lớn”. Và vì thế, viện trợ của Nhật cho Indonesia liên quan đến rác cũng được dưa vào cỗ máy ODA này.

Từ những năm 70, các quốc gia ven biển bắt đầu nhận được vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý. Hậu quả là các công ty đánh bắt hải sản của Nhật Bản bị hạn chế đánh bắt ở những ngư trường giàu có của nước cộng hòa Kiribati thuộc Trung- Tây Thái Bình Dương. Trong khi Hàn Quốc phải trả tiền cho Kiribati để được tiếp tục đánh bắt, thì Nhật lại triển khai một chiến lược khác. Họ đề xuất cho Kiribati cái gọi là “Viện trợ không hoàn lại trong lĩnh vực thuỷ sản”, tặng cho nước này mấy chiếc tàu đánh cá và kho bảo quản hiện đại, và cuối cùng là người Nhật được khai thác hải sản của Kiribati với giá rẻ…

Posted: Mon Aug 09, 2010 4:44 pm
by phamha10e
cái này nó lãng mạn quá !