by Kira » Sat Dec 13, 2008 12:25 pm
Giới thiệu chung
Diện tích tự nhiên: 144,95 km2 - Dân số: 142.526 người (tính đến 1-4-1999) - Ðơn vị hành chính: 01 thị trấn và 26 xã - Tốc độ tăng trưởng kinh tế: 9,5%/năm - Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp: 51,4%, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản 19,2%, dịch vụ- thương mại 29,4% - Bình quân lương thực: 367 kg/người/năm. Nga Sơn, với chiều dài 20 km bờ biển, (gồm 8 xã nằm dọc theo bờ biển là vùng triều màu mỡ đã tạo nên thế mạnh để phát triển nông nghiệp và kinh tế biển. ở đây, cây lúa và cây cói được coi là hai chân trụ đảm bảo ổn định về an ninh lương thực và tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ngoài ra, việc nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ, hải sản cũng phát triển mạnh, tạo đà cho Nga Sơn có những bước tiến dài trong những năm qua.
Huyện Nga Sơn nằm ở cực đông bắc tỉnh Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 42km, phía bắc và đông giáp tỉnh Ninh Bình và thị xã Bỉm Sơn, phía tây giáp huyện Hà Trung, phía nam giáp huyện Hậu Lộc. Với đường bờ biển dài 20km, mỗi năm Nga Sơn lấn ra biển từ 80 đến 100m do phù sa sông Hồng và sông Ðáy bồi lắng.
Thành công từ chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Về nông nghiệp: thực hiện Nghị quyết 02 của Huyện uỷ, Nga Sơn đã có những chuyển biến lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đồng thời trở thành một trong những huyện đi đầu trong công tác đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất như: giống lúa lai, ngô lai, đậu tương, lạc,... Ðến nay, toàn huyện đã gieo trồng được 80% diện tích giống lúa lai cho năng suất cao, góp phần đưa năng suất bình quân trên vụ đạt 5,2 tấn/ha (cả 2 vụ sản xuất Nga Sơn đều đạt năng suất 11,4 tấn/ha/năm). Vì thế, dù diện tích lúa có giảm so với năm trước, nhưng tổng sản lượng lương thực năm 2002 vẫn đạt khoảng 54.000 tấn, tăng 4,1% so với năm 2001.
Với những vùng cho diện tích năng suất lúa thấp, huyện đã tích cực chuyển đổi sang trồng những cây có giá trị kinh tế cao. Trong đó, diện tích cây đậu tương tăng 170 ha, lạc tăng 100 ha, cói tăng 660 ha so với cùng kỳ năm trước. Năm 2002, năng suất cói đạt 81 tạ/ha, sản lượng đạt 27. 729 tấn, tăng 115% so với năm 2001; năng suất lạc đạt 18,3 tạ/ha, sản lượng đạt 2.620,2 tấn, tăng 94,8% so với năm 2001,... Huyện Uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo các xã và bà con nông dân thực hiện quy trình thâm canh lúa, cói, các loại cây trồng và từng bước mở rộng diện tích lúa lai (ở cả hai vụ), lạc lai, ngô lai trên địa bàn toàn huyện.
Ðối với lâm nghiệp, mặc dù không phải là huyện vùng cao, nhưng công tác trồng rừng vẫn được coi trọng. Nhờ đó, năm 2002, toàn huyện trồng mới được 65.000 cây phân tán; cải tạo 70 ha vườn tạp; 4 ha rừng tập trung; chuyển 30 ha rừng bạch đàn sang trồng cây ăn quả (chủ yếu tại các khu vực Hoàng Cương, Nga Thiện, Nga Ðiền, vùng khe Niễn - Nga An).
Cùng với trồng trọt, ngành chăn nuôi của huyện Nga Sơn những năm qua cũng thu được nhiều kết quả khả quan. Ðến nay, huyện đã chỉ đạo tốt đề án cải tạo đàn lợn, đề án chăn nuôi lợn ngoại xuất khẩu. Năm 2002, tổng đàn lợn là 50.941 con (tăng 6,3% so với năm 2001), trong đó đàn lợn nái ngoại có 250 con, tăng 42 con so với năm 2001, tổng lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 4.023 tấn.
Trong chương trình cải tạo đàn lợn, đàn bò, người nông dân đã thực hiện tốt các kỹ thuật mới. Năm 2002, trạm truyền tinh nhân tạo lợn đã tiêu thụ được 3.400 liều tinh, truyền phối tinh viên cải tạo đàn bò được 304, đưa tổng số đàn bò trên toàn huyện lên 6.884 con năm 2002, bằng 100,9% so với năm 2001. Tổng số đàn trâu hiện là 1.458 con, bằng 96,5% so với năm 2001. Mô hình nuôi gia cầm, chủ yếu là chăn nuôi gà cũng phát triển tốt. Trong đó, xã Nga Bạch có 5 trại với tổng số 20.000 con gà đang phát triển tốt là một trong những xã điển hình thành công trong chăn nuôi gà của toàn huyện.
Về thuỷ sản, thực hiện Nghị quyết 02 của Huyện uỷ, Nga Sơn xác định phải đưa ngành thuỷ sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Nhờ đó, năm 2002, ngành thuỷ sản Nga Sơn đã có bước tăng trưởng nhanh, nuôi trồng thuỷ sản (nước mặn, lợ) tăng 20,7%, nuôi tôm sú tăng 46%, nuôi cua tăng 12,5%, nuôi nước ngọt tăng 2,1% so với năm 2001. Tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng đạt 2.393 tấn, bằng 95,7% năm 2001. Trong đó, sản lượng khai thác tự nhiên là 1.589 tấn (bằng 90,8% năm 2001), sản lượng nuôi trồng đạt 804 tấn (tăng 7,2 % so với năm 2001). Qua những kết quả thu, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo từng hộ dân phải nâng cao chất lượng giống tôm, đưa và nhân rộng mô hình chăn nuôi các loại con nuôi có giá trị kinh tế cao như cá chim trắng, cá rô phi đơn tính, tôm càng xanh trên địa bàn toàn huyện.
Với ngành tiểu thủ công nghiệp, đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo Nghị quyết 02 và Nghị quyết 04 của Huyện uỷ đã cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt trong sản xuất, tạo sự sôi động cho thị trường tiêu thụ hàng cói và các sản phẩm được làm từ cói đang ngày càng phong phú và đa dạng. Các sản phẩm chủ yếu như chiếu chẻ 2.400 nghìn lá, bằng 100,8%; quại cói 19.000 tấn bằng 126,6% so với năm 2001.
Hiệu quả sản xuất - kinh doanh đạt chỉ số khá cao, đời sống của người dân trong huyện dần được ổn định. Số cơ sở, tổ sản xuất mặt hàng cói tăng khá nhanh ở một số xã vùng chiêm, vùng màu. Hiện nay, toàn huyện có 9.600 cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ, thu hút 13.388 lao động. Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo mở rộng cả 3 vùng sản xuất cói. Nhiều xã đã tập trung chỉ đạo xây dựng tổ sản xuất thu mua các sản phẩm về cói, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, góp phần đưa nghề cói trở thành nghề truyền thống của người dân trong huyện, các sản phẩm cói được tiêu thụ trên mọi miền đất nước.
Ðẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng
Cùng với phát triển các ngành kinh tế, đời sống văn hoá, tinh thần của người dân trong huyện từng bước được cải thiện. Trong những năm qua, ngành bưu điện đã cung cấp báo chí kịp thời trong ngày, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ tốt cho đời sống kinh tế - xã hội của huyện. Hiện nay, số máy điện thoại được hoà mạng của toàn huyện đạt mức bình quân 2,1 máy/100 dân. Ngoài ra, công tác bưu chính cũng được triển khai tốt như: bưu phẩm, bưu kiện, thư tín,... được chuyển trả kịp thời, nhanh chóng và chính xác.
Phong trào làm đường giao thông nông thôn trên địa bàn có những bước phát triển khá. Số đường làm mới, nâng cấp, kiên cố hoá tăng nhanh, chất lượng khá. Có được kết quả đó là do Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo các phòng, ban chức năng hướng dẫn cơ sở quy trình kỹ thuật, quy trình lập dự toán, tổ chức tham quan,... nhằm khuyến khích các đơn vị thi đua làm đường giao thông nông thôn. Ðến năm 2002, Nga Sơn đã làm mới được 4,3km đường nhựa, 38km đường bê tông, 38km đường đá dăm, 64km đường cấp phối, làm mới và tu sửa 135 cống thoát nước, huy động nhân dân đóng góp hơn 9 tỷ đồng và hơn 30.000 ngày công làm đường giao thông nông thôn. Bên cạnh đó, huyện cũng phối hợp với Khu quản lý đường bộ 4, triển khai thực hiện dự án cải tạo nâng cấp, mở rộng đường 10 đoạn qua Nga Sơn và phối hợp với Sở Giao thông - Vận tải Thanh Hoá nâng cấp, duy tu, xây mới nhiều tuyến đường, cây cầu với trị giá hàng trăm triệu đồng, từ đó tạo nên những huyết mạch giao thông thông suốt trong và ngoài huyện.
Xác định giáo dục - đào tạo là mục tiêu quan trọng hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong đào tạo nguồn nhân lực. Năm 2002, huyện Nga Sơn đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở ... Riêng Trường Chu Văn An được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen và Trường Ba Ðình được tặng cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ,... Bên cạnh đó, Nga Sơn còn chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Nhờ đó, đến nay, toàn huyện có 183 giáo viên giỏi cấp huyện, 19 giáo viên giỏi cấp tỉnh, 01 nhà giáo ưu tú... Cơ sở vật chất trường học được tăng cường, trong đó toàn huyện đã có thêm 17 trường học được kiên cố với 144 phòng học, nâng tổng số phòng học kiên cố của toàn huyện lên 51% tổng số phòng học.
Công tác y tế dự phòng thu được những kết quả khả quan. Chương trình tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, tổ chức tập huấn công tác phòng chống sốt xuất huyết, dịch tả cho toàn bộ cán bộ trên phạm vi 27 xã, thị trấn, tiêm chủng mở rộng đạt 98%, uống Vitamin A đạt 100% số cháu trong độ tuổi. Khám, chữa bệnh cho 17.534 lượt người. Do đó, Nga Sơn không có những dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn.
Các hoạt động văn hoá - thể thao, phong trào xây dựng làng văn hoá, các cơ quan, gia đình văn hoá, gia đình thể thao được đẩy mạnh. An ninh - quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định. Hàng năm, công tác giáo dục chính trị cho lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên đạt 100%, hoàn thành 100% các chỉ tiêu khám tuyển, giao quân.
[b][font="Arial"]Giới thiệu chung[/font][/b]
Diện tích tự nhiên: 144,95 km2 - Dân số: 142.526 người (tính đến 1-4-1999) - Ðơn vị hành chính: 01 thị trấn và 26 xã - Tốc độ tăng trưởng kinh tế: 9,5%/năm - Cơ cấu kinh tế: nông nghiệp: 51,4%, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng cơ bản 19,2%, dịch vụ- thương mại 29,4% - Bình quân lương thực: 367 kg/người/năm. Nga Sơn, với chiều dài 20 km bờ biển, (gồm 8 xã nằm dọc theo bờ biển là vùng triều màu mỡ đã tạo nên thế mạnh để phát triển nông nghiệp và kinh tế biển. ở đây, cây lúa và cây cói được coi là hai chân trụ đảm bảo ổn định về an ninh lương thực và tạo bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Ngoài ra, việc nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ, hải sản cũng phát triển mạnh, tạo đà cho Nga Sơn có những bước tiến dài trong những năm qua.
Huyện Nga Sơn nằm ở cực đông bắc tỉnh Thanh Hoá, cách thành phố Thanh Hoá 42km, phía bắc và đông giáp tỉnh Ninh Bình và thị xã Bỉm Sơn, phía tây giáp huyện Hà Trung, phía nam giáp huyện Hậu Lộc. Với đường bờ biển dài 20km, mỗi năm Nga Sơn lấn ra biển từ 80 đến 100m do phù sa sông Hồng và sông Ðáy bồi lắng.
[b]Thành công từ chuyển dịch cơ cấu kinh tế[/b]
Về nông nghiệp: thực hiện Nghị quyết 02 của Huyện uỷ, Nga Sơn đã có những chuyển biến lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đồng thời trở thành một trong những huyện đi đầu trong công tác đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, giống mới có năng suất, chất lượng cao vào sản xuất như: giống lúa lai, ngô lai, đậu tương, lạc,... Ðến nay, toàn huyện đã gieo trồng được 80% diện tích giống lúa lai cho năng suất cao, góp phần đưa năng suất bình quân trên vụ đạt 5,2 tấn/ha (cả 2 vụ sản xuất Nga Sơn đều đạt năng suất 11,4 tấn/ha/năm). Vì thế, dù diện tích lúa có giảm so với năm trước, nhưng tổng sản lượng lương thực năm 2002 vẫn đạt khoảng 54.000 tấn, tăng 4,1% so với năm 2001.
Với những vùng cho diện tích năng suất lúa thấp, huyện đã tích cực chuyển đổi sang trồng những cây có giá trị kinh tế cao. Trong đó, diện tích cây đậu tương tăng 170 ha, lạc tăng 100 ha, cói tăng 660 ha so với cùng kỳ năm trước. Năm 2002, năng suất cói đạt 81 tạ/ha, sản lượng đạt 27. 729 tấn, tăng 115% so với năm 2001; năng suất lạc đạt 18,3 tạ/ha, sản lượng đạt 2.620,2 tấn, tăng 94,8% so với năm 2001,... Huyện Uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo các xã và bà con nông dân thực hiện quy trình thâm canh lúa, cói, các loại cây trồng và từng bước mở rộng diện tích lúa lai (ở cả hai vụ), lạc lai, ngô lai trên địa bàn toàn huyện.
Ðối với lâm nghiệp, mặc dù không phải là huyện vùng cao, nhưng công tác trồng rừng vẫn được coi trọng. Nhờ đó, năm 2002, toàn huyện trồng mới được 65.000 cây phân tán; cải tạo 70 ha vườn tạp; 4 ha rừng tập trung; chuyển 30 ha rừng bạch đàn sang trồng cây ăn quả (chủ yếu tại các khu vực Hoàng Cương, Nga Thiện, Nga Ðiền, vùng khe Niễn - Nga An).
Cùng với trồng trọt, ngành chăn nuôi của huyện Nga Sơn những năm qua cũng thu được nhiều kết quả khả quan. Ðến nay, huyện đã chỉ đạo tốt đề án cải tạo đàn lợn, đề án chăn nuôi lợn ngoại xuất khẩu. Năm 2002, tổng đàn lợn là 50.941 con (tăng 6,3% so với năm 2001), trong đó đàn lợn nái ngoại có 250 con, tăng 42 con so với năm 2001, tổng lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 4.023 tấn.
Trong chương trình cải tạo đàn lợn, đàn bò, người nông dân đã thực hiện tốt các kỹ thuật mới. Năm 2002, trạm truyền tinh nhân tạo lợn đã tiêu thụ được 3.400 liều tinh, truyền phối tinh viên cải tạo đàn bò được 304, đưa tổng số đàn bò trên toàn huyện lên 6.884 con năm 2002, bằng 100,9% so với năm 2001. Tổng số đàn trâu hiện là 1.458 con, bằng 96,5% so với năm 2001. Mô hình nuôi gia cầm, chủ yếu là chăn nuôi gà cũng phát triển tốt. Trong đó, xã Nga Bạch có 5 trại với tổng số 20.000 con gà đang phát triển tốt là một trong những xã điển hình thành công trong chăn nuôi gà của toàn huyện.
Về thuỷ sản, thực hiện Nghị quyết 02 của Huyện uỷ, Nga Sơn xác định phải đưa ngành thuỷ sản trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Nhờ đó, năm 2002, ngành thuỷ sản Nga Sơn đã có bước tăng trưởng nhanh, nuôi trồng thuỷ sản (nước mặn, lợ) tăng 20,7%, nuôi tôm sú tăng 46%, nuôi cua tăng 12,5%, nuôi nước ngọt tăng 2,1% so với năm 2001. Tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng đạt 2.393 tấn, bằng 95,7% năm 2001. Trong đó, sản lượng khai thác tự nhiên là 1.589 tấn (bằng 90,8% năm 2001), sản lượng nuôi trồng đạt 804 tấn (tăng 7,2 % so với năm 2001). Qua những kết quả thu, Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo từng hộ dân phải nâng cao chất lượng giống tôm, đưa và nhân rộng mô hình chăn nuôi các loại con nuôi có giá trị kinh tế cao như cá chim trắng, cá rô phi đơn tính, tôm càng xanh trên địa bàn toàn huyện.
Với ngành tiểu thủ công nghiệp, đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo Nghị quyết 02 và Nghị quyết 04 của Huyện uỷ đã cho thấy sự tăng trưởng rõ rệt trong sản xuất, tạo sự sôi động cho thị trường tiêu thụ hàng cói và các sản phẩm được làm từ cói đang ngày càng phong phú và đa dạng. Các sản phẩm chủ yếu như chiếu chẻ 2.400 nghìn lá, bằng 100,8%; quại cói 19.000 tấn bằng 126,6% so với năm 2001.
Hiệu quả sản xuất - kinh doanh đạt chỉ số khá cao, đời sống của người dân trong huyện dần được ổn định. Số cơ sở, tổ sản xuất mặt hàng cói tăng khá nhanh ở một số xã vùng chiêm, vùng màu. Hiện nay, toàn huyện có 9.600 cơ sở sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp vừa và nhỏ, thu hút 13.388 lao động. Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo mở rộng cả 3 vùng sản xuất cói. Nhiều xã đã tập trung chỉ đạo xây dựng tổ sản xuất thu mua các sản phẩm về cói, tạo điều kiện cho sản xuất phát triển, góp phần đưa nghề cói trở thành nghề truyền thống của người dân trong huyện, các sản phẩm cói được tiêu thụ trên mọi miền đất nước.
Ðẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng
Cùng với phát triển các ngành kinh tế, đời sống văn hoá, tinh thần của người dân trong huyện từng bước được cải thiện. Trong những năm qua, ngành bưu điện đã cung cấp báo chí kịp thời trong ngày, thông tin liên lạc thông suốt phục vụ tốt cho đời sống kinh tế - xã hội của huyện. Hiện nay, số máy điện thoại được hoà mạng của toàn huyện đạt mức bình quân 2,1 máy/100 dân. Ngoài ra, công tác bưu chính cũng được triển khai tốt như: bưu phẩm, bưu kiện, thư tín,... được chuyển trả kịp thời, nhanh chóng và chính xác.
Phong trào làm đường giao thông nông thôn trên địa bàn có những bước phát triển khá. Số đường làm mới, nâng cấp, kiên cố hoá tăng nhanh, chất lượng khá. Có được kết quả đó là do Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện đã chỉ đạo các phòng, ban chức năng hướng dẫn cơ sở quy trình kỹ thuật, quy trình lập dự toán, tổ chức tham quan,... nhằm khuyến khích các đơn vị thi đua làm đường giao thông nông thôn. Ðến năm 2002, Nga Sơn đã làm mới được 4,3km đường nhựa, 38km đường bê tông, 38km đường đá dăm, 64km đường cấp phối, làm mới và tu sửa 135 cống thoát nước, huy động nhân dân đóng góp hơn 9 tỷ đồng và hơn 30.000 ngày công làm đường giao thông nông thôn. Bên cạnh đó, huyện cũng phối hợp với Khu quản lý đường bộ 4, triển khai thực hiện dự án cải tạo nâng cấp, mở rộng đường 10 đoạn qua Nga Sơn và phối hợp với Sở Giao thông - Vận tải Thanh Hoá nâng cấp, duy tu, xây mới nhiều tuyến đường, cây cầu với trị giá hàng trăm triệu đồng, từ đó tạo nên những huyết mạch giao thông thông suốt trong và ngoài huyện.
Xác định giáo dục - đào tạo là mục tiêu quan trọng hàng đầu, giữ vai trò then chốt trong đào tạo nguồn nhân lực. Năm 2002, huyện Nga Sơn đã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở ... Riêng Trường Chu Văn An được Thủ tướng Chính phủ tặng bằng khen và Trường Ba Ðình được tặng cờ thi đua xuất sắc của Chính phủ,... Bên cạnh đó, Nga Sơn còn chú trọng đến công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Nhờ đó, đến nay, toàn huyện có 183 giáo viên giỏi cấp huyện, 19 giáo viên giỏi cấp tỉnh, 01 nhà giáo ưu tú... Cơ sở vật chất trường học được tăng cường, trong đó toàn huyện đã có thêm 17 trường học được kiên cố với 144 phòng học, nâng tổng số phòng học kiên cố của toàn huyện lên 51% tổng số phòng học.
Công tác y tế dự phòng thu được những kết quả khả quan. Chương trình tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, tổ chức tập huấn công tác phòng chống sốt xuất huyết, dịch tả cho toàn bộ cán bộ trên phạm vi 27 xã, thị trấn, tiêm chủng mở rộng đạt 98%, uống Vitamin A đạt 100% số cháu trong độ tuổi. Khám, chữa bệnh cho 17.534 lượt người. Do đó, Nga Sơn không có những dịch bệnh lớn xảy ra trên địa bàn.
Các hoạt động văn hoá - thể thao, phong trào xây dựng làng văn hoá, các cơ quan, gia đình văn hoá, gia đình thể thao được đẩy mạnh. An ninh - quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội ổn định. Hàng năm, công tác giáo dục chính trị cho lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên đạt 100%, hoàn thành 100% các chỉ tiêu khám tuyển, giao quân.