29 năm tìm cha và điệp vụ thám tử bí ẩn - 08/01/11

Post a reply

Confirmation code
Enter the code exactly as it appears. All letters are case insensitive.
Smilies
:4ever: :sr :air_kiss: :angry: :ban: :biggrin: :birthday: :blink: :blush: :brunette: :bs_nostealinganythi :bs_nostealinganythi :cards: :close: :closed: :congrates: :connie_19: :connie_25: :connie_25_2: :connie_33: :connie_37: :connie_dancegirl: :connie_dancegirl_2: :connie_running: :cool: :crazy: :crazy_devil: :crigon_04: :dance: :dance3: :drag_01: :drag_01_2: :dry: :d_birthday: :excl: :fans: :fans_2: :fechten2: :fechten2_2: :flag_of_truce: :gdjob: :gdluck: :gdluck_2: :girl_cray: :give_rose: :gogo: :good: :guns: :happy:
View more smilies

BBCode is ON
[img] is ON
[url] is ON
Smilies are ON

Topic review
   

Expand view Topic review: 29 năm tìm cha và điệp vụ thám tử bí ẩn - 08/01/11

29 năm tìm cha và điệp vụ thám tử bí ẩn - 08/01/11

by lovelisady » Tue Jan 11, 2011 11:31 am

Đó là câu chuyện buồn và xúc động của một phụ nữ - một thân phận đặc biệt, đầy bi thương. Chị đã trải qua một tuổi thơ hãi hùng và giờ đây vẫn sống trong nghèo túng. Phải vật lộn với cuộc sống nhọc nhằn, những tưởng người phụ nữ ấy không đủ thời gian để nghĩ về người cha bí ẩn của mình, nhưng thật kỳ lạ, tình phụ tử trong chị chưa bao giờ tắt…


Chị là Lương Thị Thủy - “Bút Đa”, sinh ngày 17/7/1971. Chị là kết quả của một mối tình éo le, trắc trở. Có thể vì thế mà số phận chị cũng đầy trắc trở… Những người giúp Bút Đa tìm cha đã áp dụng những biện pháp "tìm kiếm" kỳ lạ nhất, không theo lôgíc thông thường, không theo tâm lý và sự biến thông thường.


Chính điều này đã khiến cuộc kiếm tìm dài dằng dặc thấm đượm một màn huyền hoặc, không thể giải thích nổi nhưng cũng đầy những chi tiết hoa dã. Và nếu như bạn biết rằng, những thám tử bí ẩn này đã tìm cha cho Bút Đa hoàn toàn miễn phí thì bạn sẽ càng tò mò muốn biết về họ... Những thám tử đó bạn sẽ gặp lại ở các phần sau của câu chuyện cảm động, li kỳ này. Bây giờ, chúng ta hãy tạm biệt họ, tạm biệt những thám tử bí ẩn mà chính chúng ta chưa biết để quay về với khởi đầu của câu chuyện này.





Câu chuyện thứ nhất



Khoảng trung tuần tháng 3/2007, có hai cô gái còn khá trẻ, tên là Khương Thị Chung và Khương Thị Thành, đến Công ty Điều tra và Bảo vệ - V. Họ tự giới thiệu là hai chị em, sau khi đọc một loạt bài về nghề thám tử ở báo ANTG, họ biết về công ty và đến đề nghị được giúp đỡ. Họ mang theo vài thứ giấy tờ rồi kể một câu chuyện rất buồn về người chị gái đã mất tích rất lâu của họ.


[CENTER]Image[/CENTER]


Chị Lương Thị Thủy kể chuyện đời mình với phóng viên


Đó là vào khoảng năm 1998, trong lúc dọn nhà, Khương Thị Thành nhặt được một lá thư có nội dung khá lạ. Sau khi đọc bức thư, Thành giật mình vì biết đó là thư của người chị gái, có tên là Thủy đã lưu lạc khoảng 20 năm về trước. Đây là người chị gái cùng cùng mẹ khác cha mà, thời còn rất bé, Thành có nhìn thấy vài lần và lờ mờ nghe người ta kể về chị. Cũng từ đó trở đi Thành chưa bao giờ có một thông tin về chị. Hôm nay nhặt được lá thư đã rách nát, úa màu ở góc bếp, Thành đoán rằng cha và mẹ kế đã không muốn họ biết về người chị này.


Đọc lá thư, Thành khóc rất lâu. Rồi trong tiềm thức xa thẳm hình ảnh người chị đã được khôi phục trong Thành. Hồi ấy, khu tập thể Xí nghiệp may Đáp Cầu (Hà Bắc cũ) còn rất hoang sơ, ngoài những thửa ruộng chỉ có vài khu nhà tập thể của công nhân. Đang ở trong nhà, Thành thấy người ta xôn xao ngoài ngõ, Thành chạy ra và thấy một cô bé gầy gò rách rưới đứng ôm cây chuối nhìn vào nhà mình. Rồi có bà hàng xóm chạy ra kêu lên mày có phải cái Thủy con mẹ Thức không? Cô bé ấy run rẩy gật đầu. Lúc đó Thành mới biết người kia là chị gái mình đã bỏ nhà ra đi từ vài năm trước.


Đêm đó, cả ba chị em Chung, Thành và Thủy được đoàn tụ và khóc hết nước mắt. Những tưởng từ đây ba chị em họ sẽ được sống với nhau. Nhưng sự đời lại không đơn giản như thế. Chỉ vài ngày sau, Thủy lại lặng lẽ bỏ nhà ra đi. Cũng từ cái đêm đoàn tụ hiếm hoi đó, Thủy thổ lộ với hai em về thân phận đặc biệt của mình và khát khao tìm được người bố đẻ.





Câu chuyện thứ hai



Khoảng tháng 7 năm 1970, có một nhóm học viên người Lào sang học tập tại Trường Sĩ quan Công binh, thuộc Bộ tư lệnh Công binh Hà Bắc (sau này trường chuyển vào Bình Dương). Trong số đó có một học viên tên là Bun Thăm. Anh khoảng 25 - 26 tuổi, thấp đậm, cười rất tươi, khi nói thường nhếch một bên mép phải, dân tộc Lự, nhà ở tỉnh Luông Pha Băng.


Do trường ở gần Xí nghiệp may Đáp Cầu nên họ thường sang giao lưu với công nhân ở đó. Bun Thăm có làm quen rồi yêu một cô gái tên là Lương Thị Thức. Đó là một cô gái khá xinh đẹp, con nuôi của ông giám đốc xí nghiệp. Hồi ấy chuyện yêu đương rất khắt khe, đặc biệt với người nước ngoài. Nhưng vì quá say mê nhau nên họ đã có thai. Khi mọi việc đã đi quá xa, Bun Thăm xin cưới cô Thức nhưng ông bố nuôi không cho vì hai nước chưa có quy định việc kết hôn.


Sự cấm đoán của bố nuôi cùng những lời bàn tán của mọi người khiến họ hoang mang lo sợ. Rồi họ đi đến một quyết định - bỏ trốn. Bun Thăm bí mật đưa người yêu về Lào. Hai người xuống Hà Nội, rồi trốn trên một chiếc xe chở xăng đến Thanh Hóa, rồi đi bộ vào biên giới. Nhưng đến trạm kiểm soát Nà Mèo, Bun Thăm có giấy tờ nên được đi tiếp, còn cô Thức bị giữ lại. Không còn cách nào khác, họ chia tay để chờ đợi cơ hội khác. Trước khi đi, chàng trai người Lào thề rằng nếu không lấy được nhau sẽ tự vẫn. Khi ấy cái thai trong bụng cô Thức đã được bốn tháng, Bun Thăm có dặn nếu sinh con thì đặt tên là Bút Đa. Vài ngày sau, xí nghiệp cử người xuống đón cô Thức về.


Sau lần trốn chạy đó, tinh thần cô Thức hoảng loạn, vài lần tự tử nhưng không thành; có lúc cô đã muốn bỏ cái thai đi. Cũng may có bạn bè và ông bố nuôi tốt bụng, hết sức động viên nên cô qua được cơn sốc đó. Thời gian sau, có một người đàn ông đến xin cưới cô Thức. Thực ra đó là một người bạn, anh ta cũng biết chuyện tình của Thức và cả cái thai trong bụng cô nhưng vẫn xin cưới. Được bố nuôi, bạn bè động viên, rồi cũng chẳng hy vọng vào người yêu cũ, lại thêm chiến tranh liên miên nên cô Thức đã đồng ý lấy chống.


Ngày 17/7/1971, cô Thức sinh con đặt tên là Lương Thị Thủy. Và còn một cái tên theo ý nguyện của người yêu là Bút Đa. Đến năm 1973, Bun Thăm đột ngột quay về, anh rất buồn vì biết Thức đã lấy chồng. Anh bàn bạc với gia đình Thức về nguyện vọng đưa con mình về Lào. Ban đầu Thức đồng ý, nhưng khi Bun Thăm bế con đi, đột nhiên Thức sợ hãi đuổi theo đòi lại. Trước sự kiên quyết của Thức, Bun Thăm đành phải trả lại con, buồn bã quay về Lào. Cũng từ đó hai người bặt tin nhau.


Với người chồng hiện tại, Thức sinh thêm hai đứa con gái chính là Chung và Thành. Cuộc sống của Thức chỉ êm đềm cho đến khi người bố nuôi mất. Từ đó nhiều bi kịch gia đình đổ xuống đầu cô. Đến năm 1979, cô mất vì trọng bệnh và câu chuyện đau buồn của cuộc đời đứa con lai bắt đầu…


Câu chuyện thứ ba


[CENTER]Image[/CENTER]


[CENTER]Image[/CENTER]


Cây cầu "kỳ lạ" trên đường vào nhà chị Thủy


Nếu gặp người phụ nữ này, bất cứ ai cũng cảm nhận được sự vất vả trên gương mặt của chị: da ngăm đen, lông mày rậm, gò má cao, đặc biệt là đôi mắt đượm buồn... Chị xoa bàn tay thô vụng, chai sần và ngồi bệt xuống hè nhà, kể một cách tức tưởi về tuổi thơ cơ cực của mình.


Chị nhớ như in cái ngày mẹ mất, đó là vào khoảng tháng 12 năm 1979. Lúc hấp hối, mẹ chị có dặn rằng, sau khi mẹ mất con sang ở với dì Dị (người em kết nghĩa với mẹ chị)… Rồi bà tắt thở. Tang lễ xong, người cha dượng gọi chị lại và nói rằng: tao không phải là bố đẻ của mày, bố mày ở mãi bên Lào, bây giờ mày muốn đi đâu thì đi. Và chỉ hai tháng sau, ông ấy đã đi bước nữa.


Điều làm Thủy nhớ mãi, trong đám tang của mẹ có một người đàn ông đến thắp hương rồi đưa cho Thủy hai gói kẹo, nhưng ngay lập tức ông bố dượng giật lấy hai gói kẹo vứt đi rồi tát cho Thủy một cái rất đau. Khi đó Thủy mới 8 tuổi nên chẳng hiểu gì cả và cũng chẳng kịp nhìn kỹ mặt người đàn ông đó.


Theo lời mẹ dặn Thủy sang sống với dì Dị, nhưng cuộc sống chẳng được yên vì người mẹ kế lại đến và đòi Thủy về. Người ta vẫn tưởng họ đón Thủy về vì trách nhiệm và tình thương, nhưng sự thật lại không phải thế… Kể đến đây, chị khóc - những giọt nước mắt cứ rơi lã chã trên khuôn mặt quá già so với tuổi của chị. Không chịu được cuộc sống với bố dượng và mẹ kế, một đêm Thủy lẳng lặng bỏ nhà ra đi, Thủy ra đi với ý định tìm về quê mẹ.


Trong hình dung nhạt nhòa về quê ngoại, Thủy chỉ nhớ ra ga tàu rồi đi, đến khi nào nhìn thấy một cây đa là đến. Với suy nghĩ của một đứa trẻ 8 tuổi thì điều đó sẽ giải thoát được cuộc sống nhọc nhằn ở nơi này. Thủy chỉ vơ vội vài bộ quần áo, hai quyển sách giáo khoa, nhìn hai em lần cuối và lặng lẽ ra đi. Và cuộc sống lang thang bắt đầu từ đó.


Trên tàu, Thủy đã không thể nào nhìn thấy cây đa trong tiềm thức. Con tàu cứ lắc lư đưa Thủy đi. Rất nhiều ngày rong ruổi trên tàu nhưng chẳng bao giờ Thủy thấy cây đa cả. Đói quá, Thủy bắt đầu xin ăn, và gặp bất cứ đứa trẻ nào Thủy cũng chìa hai quyển sách giáo khoa ra và nói: “Chúng mày biết quê mẹ tao ở đâu không? Chỉ cho tao thì tao cho hai quyển sách này…”. Những đứa trẻ nhìn Thủy một cách kỳ lạ, làm sao chúng nó biết quê mẹ của Thủy ở đâu. Trước mắt chúng là đứa bé gái 8 tuổi còm nhom, rách rưới và bẩn thỉu, chúng sợ hãi rồi bỏ chạy…


Kể đến đây chị lại khóc, giọng nói bị nghẹn lại, hình như những ngày tháng cực nhọc đó đang hiện về trong tiềm thức của chị. Chúng tôi phải động viên chị và lảng tránh bằng những câu chuyện khác. Phải rất lâu sau chị mới đủ bình tĩnh để nhớ lại.


Đến một hôm Thủy không xin được gì. Mệt quá, Thủy tìm một góc trên tàu rồi nằm co ro ở đó. Thủy nhớ đã nằm như thế khoảng 6 ngày, lúc tỉnh lúc mê, có những lúc thấy đau rát ở lưng thò tay xuống thì ôi thôi toàn rận, chúng bò nhung nhúc cắn vãi cả máu.


Thủy chỉ nhớ lờ mờ rằng hình như có ai đó nói: “… chúng mày ơi con bé này sắp chết rồi, vứt nó xuống tàu thôi…”. Tiếng xì xầm làm Thủy sợ hãi cố hé mắt nhìn lên, và thật bất ngờ, cạnh đó có một bà đang ngồi, trong túi bà ta có một cái bánh chưng. Đói quá, Thủy thò tay nhón lấy cái bánh, khi tàu dừng người đàn bà ấy xuống, Thủy đã ăn ngấu nghiến…


Chị lại khóc - nức nở khóc! Chị nói: “Các anh biết đấy, lúc đói quá mà ăn no thì thế nào… Tôi nhớ lúc đó thật kinh khủng, bụng muốn vỡ tung…”.


Đôi mắt chị lúc này đã hết nước mắt. Chúng tôi không thể hình dung nổi người phụ nữ nhỏ bé này lại chịu nổi những ngày hãi hùng đó. Bây giờ người chị như sắt lại, hình như, cái khổ, cái cực đã giày vò chị quá nhiều nên trông chị khổ và tội đến nao lòng. Rồi bất ngờ chị đề nghị chúng tôi gọi chồng chị ra. Theo chị, câu chuyện này cần được người chồng nghe vì lâu nay chị vẫn chưa thể chứng minh với gia đình chồng rằng chị có mẹ, có bố và có quê hương chứ không phải bờ bụi như người ta vẫn đồn đại.


… Cuộc sống ăn xin của chị vẫn tiếp diễn. Có những lúc nhớ hai em quá, Thủy lỉnh về nhà đứng nhìn chúng một lúc rồi lại lên tàu ăn xin. Có đói, có khổ, Thủy cũng không dám quay về vì những trận đòn mà người ta “ban tặng” vẫn là nỗi khiếp sợ của Thủy. Rồi một lần, có người đàn bà người dân tộc thiểu số bán thuốc nam trên tàu cho Thủy đi theo. Lúc đó, được cưu mang là niềm hạnh phúc rất lớn.


Thủy đã theo bà đi hái thuốc rồi lên tàu rao bán. Có lúc đi sang cả Trung Quốc, cứ theo đường tàu mà bước, tối đâu ngủ đấy, suốt cả mùa đông chỉ mặc mỗi cái áo len cũ. Cho đến ngày gặp gia đình anh Hùng ở ga Khúc Rồng (Thái Nguyên) mới dừng lại và làm người giúp việc ở đó. Đây là gia đình đầu tiên đối xử tốt với Thủy. Cũng từ đây kết thúc chuỗi ngày ăn xin lang bạt, năm đó, Thủy vừa tròn 11 tuổi.


Thủy sống ở nhà anh Hùng cho đến khi trở thành con gái. Những tưởng cuộc sống sẽ khá hơn vì chị chuẩn bị lấy chồng - một người đàn ông dân tộc Chại. Nhưng sự việc lại không đơn giản như vậy. Trong thời gian làm người giúp việc cho gia đình anh Hùng, vì tần tảo chịu thương chịu khó nên ông Thìn hàng xóm để ý rồi nhận làm con nuôi, ông này đã có ý giữ Thủy làm con dâu vì gia đình có con trai.


Nhưng ở lứa tuổi ấy, tình yêu không thể sắp đặt, cô đã đem lòng yêu người khác. Biết Thủy không muốn làm con dâu mình, ông Thìn rất giận dữ luôn tìm cách cản trở tình yêu của Thủy. Ông luôn mắng chị là người không cha, không mẹ… Quá buồn bã, một lần nữa, Thủy lại bỏ đi.


Những lúc như thế, hình ảnh người cha đẻ lại hiện về, nó thôi thúc Thủy cần phải tìm cha, cần phải liên lạc với hai em gái của mình. Vào năm 1988, bỗng nhiên ông bố dượng ở đâu tìm đến gia đình anh Hùng và nhắn rằng bố đẻ đang tìm về gấp. Cái tin đó là một niềm hy vọng mãnh liệt, Thủy mừng rỡ về nhà bố dượng mặc dù rất sợ hãi.


Thế rồi Thủy tìm về Trường Đảng (Học viện Nguyễn Ái Quốc bây giờ) và gặp hai người đàn ông Lào. Họ tự nhận là bạn của bố Thủy và cho địa chỉ rồi dặn rằng nếu muốn tìm bố đẻ cứ việc theo địa chỉ này. Nhưng cái địa chỉ đó đã bị thất lạc.


Thủy tuyệt vọng, trở lại nhà anh Hùng và khóc. Sự tuyệt vọng làm chị suy sụp, cùng lúc đó, người em gái anh Hùng về chơi, thấy Thủy buồn quá nên rủ về nhà của mình ở xóm Đoàn Kết, xã Dân Tiến, huyện Võ Nhai (Thái Nguyên) chơi cho đỡ buồn. Ở đây Thủy đã gặp anh Lê Văn Chính, họ kết hôn và sống ở đó.


Kể đến đây, chị nói: “… Mình đã quen sống trong nghèo khổ, nếu có nghèo nữa cũng chẳng sợ gì. Điều làm mình day dứt nhất chính là việc muốn biết cha mình là ai? Liệu ông còn sống không? Và muốn cho mọi người biết mình có cha, có mẹ...”. Rồi chị lại khóc...


Kỳ 2: Thám tử đã Bình tĩnh lộ mình


"Ngồi cạnh tôi, có những lúc Thủy nói chuyện ríu rít như trẻ thơ, bối rối, phấp phỏng, rồi lại ríu rít tâm sự chuyện này chuyện nọi, tôi lặng lẽ nghe, tôi cảm nhận rất rõ Thủy đang đầy những háo hức, xốn xang, bộn rộn… Lần đầu tiên, tâm hồn người đàn bà này gặp được dòng suối mát sau 29 năm bươn trải, tồn tại. Nửa đường đến Lạt Xao, Thủy có triệu chứng sốt, nhưng tôi nhận ra căn nguyên của triệu chứng đó là cả một sang chấn tâm lý mạnh..."


Chuyến xe đầu tiên đưa Bút Đa về “nhà”


Tôi đưa chị Thủy rời Hà Nội trên một chuyến xe đường dài đi sang đất nước Triệu Voi tìm gặp bố Bun Năm, với tôi cũng là chuyến đi để tri ân với những “thám tử” Lào, có những người mà tôi chưa từng biết mặt, đã giúp chị Thủy (giúp cả chúng tôi có được những giờ phút này) có được hành trình của 29 năm chờ đợi đến tận cùng vô vọng và đau đớn.


Nhớ lại chị Thủy với gương mặt khắc khổ, nhỏ thó, đen đúa trong những lần gặp tôi trước đây, gương mặt dễ lẫn với những nông dân nghèo khắc khổ... Nhớ lại khi họ đánh liều đến trình bày nguyện vọng…, tôi đã tiếp nhận lập tức mà không kịp xác định bắt đầu tìm kiếm từ đâu, báo cáo anh Vinh, anh cũng đồng ý ngay. Tôi biết sự ủng hộ đó quan trọng thế nào với chị em Thủy. Đã quá nhiều người lắc đầu với Thủy, không tin câu chuyện của Thủy...


Ngồi cạnh tôi, có những lúc Thủy nói chuyện ríu rít như trẻ thơ, bối rối, phấp phỏng, rồi lại ríu rít tâm sự chuyện này chuyện nọi, tôi lặng lẽ nghe, tôi cảm nhận rất rõ Thủy đang đầy những háo hức, xốn xang, bộn rộn… Lần đầu tiên, tâm hồn người đàn bà này gặp được những dòng suối mát sau 29 năm bươn trải, tồn tại. Nửa đường đến Lạt Xao, Thủy có triệu chứng sốt, nhưng tôi nhận ra căn nguyên của triệu chứng đó là cả một sang chấn tâm lý mạnh, nhưng có lẽ là tích cực.


Gặp gỡ “Thám tử Lào” và câu chuyện tìm kiếm


Anh Nguyễn Quốc Việt từ Savanakhet cách 500-600 cây số đã đã thuê sẵn nơi ở cho chúng tôi và đợi sẵn ở bến xe từ 3h chiều… Rồi anh Tân và bác sĩ Đồng xuất hiện, anh Southidet Khamteum tên thân mật là Tân - nghệ sĩ, anh vốn là người làm thác nước, bon sai có tiếng ở Viên Chăn. Bác sĩ Đồng tóc đã bạc là một người mạnh mẽ và cương trực. Anh Việt kể rằng bác đã đóng góp rất nhiều tâm huyết và công sức cho cộng đồng người Việt tại đây. Lúc này họ vui đến hồn nhiên, có lẽ bởi công sức bấy lâu nay đã vượt xa ý muốn. Thủy đã khóc khi nói lời cảm ơn anh Tân, bác sĩ Đồng, những người đã giúp mình mà bấy lâu nay không biết mặt.


Câu chuyện tìm kiếm được kể lại với quá nhiều công sức và tâm huyết, nhưng vì là bí mật nghề nghiệp và tế nhị nên tôi không kể ở đây, nhưng có thể hình dung thế này: có những lúc họ phải đi tìm bằng đường thẳng, lúc đi đường vòng, phải phân loại, đối chứng, định liệu mọi bề để có kết quả chính xác, các anh đã trải qua tất cả các cung bậc cảm xúc khi tìm kiếm, sợ nhất là những lúc chán nản, ai cũng ý thức được rằng, chỉ cần một người trùng xuống, buông xuôi là hỏng việc.


Cách đây bảy tháng, anh Việt đến Viên Chăn, lạ nước lạ cái, cứ gặp ai có vẻ có điều kiện, có cơ hội là anh rủ rỉ câu chuyện để tìm manh mối hoặc nhờ vả, có người nghe để đấy, có người giúp anh nhưng do bận bịu quên đi, có người xúc động khóc nhưng không giúp được.


Đến khi gặp được bác sĩ Đồng và cô Huệ (Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Viên Chăn), anh Việt nói vợ chồng bác sĩ bận bịu vô cùng với việc riêng, việc Hội, với ngôi trường mang tên Nguyễn Du vô cùng khang trang cho con em Việt Kiều mà bao tâm huyết, nước mắt dành cho nó, vậy mà quá xúc động với câu chuyện này và cảm mến tâm huyết của anh Việt và các thám tử Việt Nam, bác Đồng và anh Tân vào cuộc đến hết mình. Trước khi đi anh có nói rất xúc động với câu chuyện này, với những manh mối của 37 năm trước (từ 1971), anh đi tìm hiểu và nhờ nhiều nơi, đi không công và nhờ miễn phí, gặp được vợ chồng bác sĩ Đồng và cô Huệ là chủ tịch Hội Việt kiều ở Viên Chăn, thế là rủ rỉ. Quá xúc động, vợ chồng bác sĩ giúp đỡ vô điều kiện, nhặt tìm phân loại từng manh mối, từng nhân chứng với một lý do duy nhất thôi thúc là bên kia Việt Nam ở một chân núi hẻo lánh có một thân phận đang trông đợi.


Thủy chỉ có cân chè Thái Nguyên và những giọt nước mắt cố nén để trả công các anh. Nhớ lại ngày báo tin cha mất, Thủy khóc ốm cả tuần, nhớ lại khi anh Việt về Việt Nam cùng tôi tiếp ba chị em tại trụ sở VPI, báo in chính thức về việc ông Bun Năm nhận Thủy làm con và xác nhận toàn bộ thân thế của Thủy, có thư của bà La Phon nhận Thủy làm con, ba chị em dù đã biết trước vẫn òa lên người khóc người cười. Tôi và anh Việt không dám nhìn vào mắt họ để cầm lòng khỏi ứa nước mắt theo. Hôm đó Thủy được công nhận có thân phận, là cô Bút Đa, dù là qua anh Việt, qua thư…


Câu chuyện về cha mẹ nuôi và quê hương thứ hai của Thủy


Buổi sáng hôm sau chúng tôi đến nhà ông Bun Năm, ông đứng lặng nhìn Thủy, vợ ông, bà La Phon từ đâu về ôm chầm lấy con, “Bút Đa, con là con đẻ của mẹ, coi như con đẻ, không phải con nuôi, con đừng buồn nữa nhé, quên những chuyện cũ đi con”. Bà nói gì tôi không nghe rõ lắm, vốn tiếng Tày của tôi chỉ đủ để mang máng hiểu được vài ba tiếng Lào. Thủy khóc nghẹn.


Bố mẹ nuôi sẽ cho chị mảnh đất rất rộng và đẹp trước cửa nhà, đó là mảnh đất rộng hàng ngàn mét vuông cách thủ đô Viên Chăn 10 km gần đường quốc lộ… Anh Tân nói đã dự định lâu rồi, tuy anh nghèo nhưng anh tin sẽ trực tiếp vận động được ngay bạn bè, những người Việt Kiều trong hội dựng ngay cho Thủy cái nhà cho vợ chồng Thủy… Biết chồng Thủy - Bút Đa có nghề mộc, anh con trai duy nhất của ông Bun, anh K boun lavong cùng vợ con vừa từ Pác Xan sẽ đầu tư cho chị toàn bộ thiết bị máy móc làm mộc, bác sĩ Đồng sẽ bảo lãnh giới thiệu lo ứng giúp vật liệu để làm và tìm đầu ra cho sản phẩm mộc, chưa kể các chính sách của Cục Công binh…


Rất nhiều những kế hoạch cho tương lai vô cùng khả thi được vạch ra… Họ chân thành, nói thật làm thật và họ có khả năng, chỉ cần Bút Đa gật đầu. Hơn hết, vợ chồng ông Bun Năm luôn mong có con gái bên mình.


Xin nói thêm, vợ chồng ông Bun Năm đều là sĩ quan lâu năm phục vụ cho quân đội nhân dân Lào, họ đã từng trải qua chiến tranh và đóng góp cho đất nước, có tri thức và lòng nhân hậu, con trai học đến Đại học Kiến trúc tại Trung Quốc cũng đang đóng góp cho đất nước những khả năng của mình, những “thám tử” tại Lào như bác Đồng, anh Tân luôn khen ngợi và yêu mến họ.


Thủy và ông Bun Năm ra sân vườn lần từng tấm ảnh từ 30 năm về trước khi ông Bun Thăm, Bun Năm còn rất trẻ… Ảnh bà Thức (mẹ Thủy) thật xinh đẹp, anh Tân nói sẽ đưa Thủy sang Bộ Công binh chào, dù sao Thủy là người con đặc biệt của một chiến sĩ công binh.


Đi thăm Thủ đô Lào và cùng tìm nơi cắm cột cờ hữu nghị Việt-Lào


Vợ chồng bác sĩ Đồng và anh Việt lấy ô tô đưa chúng tôi đi thăm Viên Chăn và ngôi trường Nguyễn Du, dành cho con em Việt Kiều. Để có ngôi trường này, vợ chồng bác sĩ đóng góp biết bao công sức, tâm huyết, trí tuệ, vượt qua cả dị nghị. Nhìn cảnh vợ chồng họ cùng trân trọng, mê mải chọn tìm vị trí thích hợp cho 2 cột cờ Lào Việt tại sân trường, tôi biết Thủy và tôi đã may mắn gặp được những người đặc biệt. Chuyện tìm cha cho Bút Đa và chọn vị trí cột cờ có điều gì đó rất gần nhau…đó là trái tim đau đáu cống hiến cho Tổ quốc và tấm lòng nhân hậu,vị tha. Tôi lần đầu gặp họ, không biết gì nhiều nhưng tôi cảm nhận rõ họ có tri thức và trách nhiệm cao trước những hành động của mình.


Ngày thứ 3 tại Lào


Những câu chuyện dưới đây ngoài dự kiến của chúng tôi, khi đi tôi chỉ mong đợi đơn giản là sum họp gia đình, không ngờ lại hơn thế nữa...


Hình như đã có sự chuẩn bị từ trước, một nghi lễ truyền thống được tổ chức trân trọng, đó là lễ lễ buộc chỉ tay đón nhận Thủy. Lễ mà gia đình dành cho Thủy là lễ Ba Sỉ kết nạp Thủy làm con, làm họ hàng, là thành viên chính thức của gia đình. Anh Tân nói, ở đây thỉ tục hành chính thừa nhận cô Thủy không quan trọng mà lễ này đã coi cô Thủy là Bút Đa, là con Bun Năm, là con của đất nước Triệu Voi rồi.


Sáng sớm ngày 11, họ hàng, làng xóm kéo đến, bên ngoài các thanh niên bắt đầu làm bếp, họ buộc dây vào cổ hai con gà ác đen treo lên, khi gà chết không mổ bụng mà làm lông sạch, buộc lên để làm lễ, ông Bun Năm lặng lẽ ra vườn dắt về 1 con dê để làm thịt.


Trong nhà, lễ nhận con đã được chuẩn bị. Bút Đa xúng xính trong bộ váy Lào thật lạ và đẹp. Dường như chưa bao giờ chị đẹp thế. Mọi người trong gia đình vây quanh mâm lễ để thầy ở chùa đến làm lễ. Nghi thức diễn ra lần lượt theo hướng dẫn của thầy, tôi thấy họ buộc chỉ vào tay rồi kết nối chỉ với một điểm chung là tháp hoa ở giữa, vòng phía sau thì đặt tay lên vạt áo của những người phía trước, hướng vào trung tâm, thầy làm lễ, còn mọi người vô cùng vui vẻ. Bút Đa rưng rưng. Sự thân mật, chân thành bởi tình gia đình và niềm tin vào đức Phật của không gian nơi khiến Bút Đa ấm áp vô cùng. Chị đang được sống giữa tình thương con người, gia đình đúng nghĩa. Sự chân thành đến thánh thiện hiện trên nét mặt (tôi quay được những cảnh đó và nhận thấy anh Nguyễn Quốc Việt cũng rất xúc động trong không gian như vậy).


Rồi Bút Đa được cầm đĩa đựng 2 con gà luộc và thầy buộc chỉ cổ tay, hình như đang ở giai đoạn chính thức công nhận, rồi thì mọi người ùa ra buộc chỉ cổ tay cho nhau và chúc mừng, Thủy và anh Việt được “ưu tiên nhất”, tôi cũng được gia đình đặc biệt ưu tiên.


Chúng tôi được sống trong những giây phút thật tuyệt vời. Cô con dâu ông Bun Năm buộc chỉ cổ tay cho tôi. Đó là một cô gái đẹp như hoa Chăm Pa với đôi mắt to, đen tròn, ngây thơ… Tôi tưởng tượng đôi mắt đó khi ngước lên đức Phật thì đó là đôi mắt thành kính và thánh thiện nhất mà tôi từng chứng kiến.


Anh Viêng Xay, Trung tá, Trưởng ban Tuyên huấn Cục Công binh, đến từ sớm. Tôi thấy khi làm lễ, trông anh tình cảm đến lạ kỳ, khác hẳn khi anh làm việc tại cơ quan với bộ quân phục, ngày anh Tân “thám tử Lào” đến tìm cha cho Bút Đa, anh được mô tả là cao to, đứng đắn, nghiêm túc nhưng hết mình. Một điều thú vị là anh chính là sỹ quan trẻ vào năm 1988 đã là trong 3 chiến sĩ Lào khi học ở Việt Nam đã đi tìm cô Thủy tận Hà Bắc để báo tin cha. Sau đó họ lại chụm vào làm một nghi lễ mà tôi không hiểu ý nghĩa, rồi một bác vung lên những nắm gạo tưới lên mọi người, mọi người òa lên vui vẻ.


Lễ kết thúc. Chúng tôi cùng ra vườn chụp ảnh kỷ niệm rồi mọi người rải chiếu ra thảm cỏ sân vườn ăn dưới ánh nắng vàng nhẹ nhàng, bừng sáng….


Đôi khi ta nghi hoặc mình, nghi hoặc những người xung quanh. Giúp người khác hoặc tự dưng có người khác giúp mình không công là bất thường, và hậu quả là vô vàn sự dửng dưng vô cảm đến mức đớn đau. Chúng ta cần có những cách thức khơi dậy, để cộng đồng có thể giúp đỡ lẫn nhau…như câu chuyện trên đây, những người trong cuộc đã giúp Bút Đa trong hoàn cảnh mà đa số họ không hề biết mặt nhân vật chính và bản thân họ không biết mặt nhau.





Kỳ 3: Người bình thường mờ nhạt đang ngồi cạnh bạn: Thám tử đấy!



Câu chuyện đã đi đến hồi kết - một cái kết có hậu - một tiếng thở nhẹ nhõm - tiếng thở ấm áp của tình yêu con người với con người. Chỉ có thể nói rằng, trên đời này còn rất nhiều người tốt. Đừng bao giờ mất niềm tin với cuộc sống tươi đẹp này.


Câu chuyện về thân phận của chị Lương Thị Thủy (Bút Đa) là điều đặc biệt. Sự đặc biệt này đã làm xúc động rất nhiều người, như một sự lan toả, nó làm người ta phải quan tâm, thậm chí, bị ám ảnh. Chính vì điều đó, việc tìm kiếm đã đạt một kết quả nhanh chóng đến bất ngờ. Và đặc biệt hơn, trong quá trình tìm kiếm xuất hiện những con người rất tốt - tốt đến khó tin!


Bản tóm tắt trung thực - lá bùa của sự thành công


Thám tử Hoàng Dương Bình, nay thuộc Công ty Tư vấn và cung cấp thông tin Hoàng Nhân, là người trực tiếp đảm nhận công việc tìm kiếm khó khăn này. Sự việc đã xảy ra quá lâu (37 năm), hơn nữa lại vượt khỏi lãnh thổ Việt Nam. Việc tìm kiếm không có bất cứ đầu mối nào và những tài liệu do hai người em chị Thủy cung cấp cũng thật mơ hồ. Chủ yếu chỉ thông qua lời kể của chị em họ.


Trao đổi với chúng tôi, thám tử Bình cho biết: khi nhận lời tìm kiếm, đã nhiều phương án được vạch ra nhưng tất cả đều bị loại bỏ nhanh chóng. Thông thường thám tử vẫn dựa vào các ngón nghề điều tra tinh vi, sự hỗ trợ của máy móc hiện đại… nhưng ở trường hợp này hầu như không áp dụng được. Anh Bình tâm sự: “Cứ nhìn chị Thủy, một người phụ nữ gày gò, đen đúa, khắc khổ… trong tôi lại dâng lên sự quyết tâm đến liều lĩnh… Tôi quyết định nhận lời.”


Đầu tiên, họ tìm đến các cựu chiến binh, những người đã từng học tập ở trường sỹ quan công binh, rồi những cựu công nhân của xí nghiệp may Đáp Cầu xưa kia… để tìm kiếm thông tin. Ban đầu những người đó nghi hoặc, có người sợ hãi, với những câu hỏi đại loại là các anh hỏi có việc gì? Tại sao lại hỏi về họ? Có liên quan gì đến tôi không?... Việc tìm kiếm tưởng đi vào bế tắc.


Nhận thấy việc mò mẫm, hỏi han không đem lại kết quả, cuối cùng thám tử Bình đưa ra một phương án rất đơn giản. Đó là soạn một bản tóm tắt về câu chuyện và thân phận cô Thủy. Đây là hành trang duy nhất mà các thám tử mang theo khi điều tra. Rất bất ngờ, bất cứ ai đọc xong bản tóm tắt đó đều xúc động và sẵn sàng giúp đỡ.


Tôi, người viết bài này cũng đã từng đọc bản tóm tắt đó. Câu chuyện được viết một cách giản dị, không hoa mỹ, chỉ những gạch đầu dòng theo kiểu báo cáo. Vậy mà câu chuyện lại hiện ra mồn một, chân thực và xúc động. Trong sự tưởng tượng của tôi, đó là một mối tình đẹp mà trắc trở, cái chi tiết anh chàng Bun Thăm si tình và cô Thức xinh đẹp kia cùng trốn trên một chiếc xe chở xăng vào Thanh Hóa, cuốc bộ sang biên giới cứ ám ảnh tôi.


Không hiểu lúc đó họ nghĩ gì? Họ dám từ bỏ tất cả để được sống bên nhau, theo tôi đó là sự kháng cự tất yếu của những kẻ yêu nhau. Đơn giản vì họ yêu nhau thế thôi! Và cái thai trong bụng cô Thức cũng là một lý do để họ tìm cách trốn chạy. Khi mọi việc không thành, nhiều lần họ tìm đến cái chết. Đó cũng là cách mà những người quá yêu lựa chọn khi tuyệt vọng.


Những tình tiết đó nói lên một điều đơn giản rằng, họ yêu nhau chân thành, giá như câu chuyện ấy không xảy ra cách đây 37 năm sẽ không có một cô Thủy mang một số phận đầy bi thương, giá như quan niệm yêu đương thời đó không quá khắt khe cô Thủy đã có một cuộc sống bình thường như những người bình thường khác. Vâng, đó chỉ là giá như mà thôi! Đây chỉ là sự suy luận chủ quan của người viết bài này, nhưng tôi tin rất nhiều người đã nghĩ như thế. Bằng chứng là việc tìm kiếm với bản tóm tắt giản dị kia lại hanh thông đến thế.


Trong câu chuyện này, có một người không thể không nhắc tới đầu tiên, đó là anh Nguyễn Quốc Việt, Lãnh sự Tổng lãnh sự quán Việt Nam tại Savanakhet, Lào. Anh cũng rất xúc động khi nhận được bản tóm tắt nội dung đó. Và như sự lan toả, anh đã đưa bản tóm tắt đó cho vợ chồng bác sĩ Đồng, Hội người Việt tại Lào. Mọi người đã trở thành cộng tác viên tình nguyện cho công việc tìm kiếm.


Qua nhiều mối quan hệ và cựu chiến binh đã từng học tập tại Việt Nam, rất nhanh chóng, ông Bun Thăm được tìm ra, nhưng một lần nữa nỗi buồn lại ập đến: ông Bun Thăm đã qua đời! Có người đã thốt lên rằng, sao số phận cô Thủy lại éo le đến thế!? Hình như số phận đã không muốn cho cha con họ được gặp nhau. Sự cố gắng của mọi người đã không được đền đáp trọn vẹn.


Khi chúng tôi thắc mắc, bằng cách nào mà các thám tử lại liên hệ được với những cộng tác viên như anh Việt tại Lào? Thám tử Bình cười và nói: “Đó là các mối quan hệ đặc biệt trong nghề thám tử tư, chúng tôi không được phép tiết lộ.” Quả thực, nghề thám tử vẫn có những điều bí ẩn mà chúng ta - những người bình thường không thể biết được. Trong suy nghĩ của tôi, thám tử phải là những người lạnh lùng: kính đen, mũ phớt… Nhưng khi gặp thám tử Bình, tôi thấy anh ta chẳng có gì giống như tưởng tượng của tôi, thậm chí còn toát lên vẻ thư sinh yếu đuối, rất dễ gần.


Thám tử Bình đã suy nghĩ rất lâu trước khi báo cái tin không vui này cho cô Thủy. Nhưng cùng lúc đó lại xuất hiện một người có tên là Bun Năm, cũng là học viên trường công binh ngày nào và là bạn thân của Bun Thăm. Ông ta đã rất xúc động khi biết được câu chuyện và thân phận cô Thủy.


Người đàn ông này đã đứng ra xin cô Thủy làm con nuôi, ông rất muốn bảo lãnh đưa cô Thủy sang Lào sinh sống. Người rất ủng hộ việc này là bà La Phon, vợ ông ta. Họ đã viết khá nhiều thư cho cô Thủy, bức thư gần đây nhất có đoạn: “… Thủy ơi, nếu con muốn ở Lào, mẹ sẵn sàng chia sẻ đất đai, giúp chuyện nhà cửa… Mẹ coi con như con đẻ từ đây…”. Ông Bun Năm cũng sẵn sàng đứng ra chứng nhận cô Thủy là con của Bun Thăm vì ông biết rõ chuyện tình của bạn mình. Đây dù sao cũng là một cái kết có hậu cho cô Thủy. Một người bố nuôi ít nhiều làm dịu nỗi đau chị vẫn mang trong người 29 năm qua, kể từ cái ngày chị biết cha mình là người Lào.


Người tốt không thiếu!


Tâm sự với chúng tôi, anh Bình nói: “Qua việc này tôi nhận ra một điều, hóa ra người tốt không thiếu, điều quan trọng là sự chân thành đã lan tỏa, giúp chúng tôi hoàn thành công việc một cách nhanh chóng… Và sự khát khao tình phụ tử của chị Thủy là nguyên nhân đầu tiên khiến mọi người xúc động…”.


Đúng như thế, người tốt chẳng bao giờ thiếu!


Đôi khi chúng ta bi quan về tình người, điều này có lẽ xuất phát từ sự nghi hoặc của chính chúng ta. Chỉ có thực tế mới chỉ ra những bài học sinh động như thế. Sự khát khao một cách bền bỉ của chị Thủy là một minh chứng rõ ràng về tình người. Sâu thẳm trong tâm hồn chị, một tiếng gọi thầm kín, đằng đẵng bền bỉ của tình phụ tử, nó thôi thúc chị phải sống, phải vượt lên tất cả.


Trong nghề làm báo, tôi đã gặp rất nhiều nhân vật, nhưng chị Thủy là người kỳ lạ nhất và đôi khi tôi cũng nghi hoặc chị. Liệu những lời kể của người phụ nữ có bề ngoài khắc khổ này có phải là sự thật?


Và chúng tôi đã quyết định đi một chuyến lên Võ Nhai (Thái Nguyên), mò vào tận ngôi nhà đơn sơ của chị ở chân núi. Chỉ khi ngồi trò chuyện với người phụ nữ này, chúng tôi mới đủ lòng tin.


Hóa ra sự nghèo khó, vất vả không thể nào làm người ta quên đi nguồn gốc của mình. Người phụ nữ một nắng hai sương ấy đã không bao giờ nguôi nguyện ước tìm kiếm cội nguồn của mình. Cả hai cô em gái cùng mẹ khác cha cũng thế. Cuộc sống của họ cũng vất vả không kém, nhưng mỗi lần nhắc đến chị Thủy thì họ lại khóc.


Chỉ có lòng tin bất tận vào con người họ mới hành động như thế. Và sự chân thành đó đã thuyết phục được những thám tử. Rồi cứ thế, sự chân thành ấy ngày một lan tỏa, nó làm xúc động những con người ở tận bên kia đất Lào. Để đến hôm nay sự thật được sáng tỏ. Khi được hỏi về nguyện vọng của mình, chị Thủy chỉ nói: “ …việc sang Lào sinh sống, tôi chưa thể trả lời. Nhưng tôi rất muốn tìm đến mộ của cha tôi, thắp cho ông ấy một nén nhanh… Nếu được anh em bên đó công nhận thì tốt, còn không tôi chỉ muốn nhìn thấy họ một lần để biết đó là những người chung dòng máu với tôi, thế thôi…”.


Đây là những nguyện vọng giản dị và xứng đáng với một thân phận thiệt thòi như chị. Cũng chính vì sự chân thành và giản dị kia đã làm tất cả mọi người xúc động. Chị xứng đáng để nhận tình yêu đó! Xét cho cùng chẳng có gì quý giá hơn tình yêu giữa con người với con người. Người cha đẻ của chị Thủy đã mất, nhưng chị lại có một người cha nuôi. Không cần hỏi lý do gì mà ông Bun Năm lại hành động như thế, đơn giản vì ông thấy cần phải làm cái gì đó để bù đắp cho người phụ nữ thiệt thòi này.


Hơn nữa, giữa hai dân tộc Việt - Lào có một mối quan hệ đặc biệt từ rất lâu. Họ được đào tạo ở đất Việt nên hiểu rõ về người Việt. Câu chuyện của Bút Đa đã thêm một bài ca rất đẹp về tình hữu nghị Việt - Lào.





Theo Vietimes



http://thamtuhoangnhan.com

Top