by thjennguyen » Wed Jan 14, 2009 6:36 pm
Lê Lợi lên ngôi vua
Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài thơ Nam quốc sơn hà.
Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (vùng núi phía Tây), nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ việc Cảo phải tự bỏ trốn mà cho rằng các tướng của Lê Lợi được lệnh sát hại Cảo, hoặc Cảo bị đe doạ phải bỏ trốn. Tuy nhiên, suy cho cùng Trần Cảo cũng chỉ là con bài chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà Minh trong một giai đoạn cần thiết. Nhà Minh lấy lý do lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Hồ.
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái tổ, chính thức dựng lên nhà Hậu Lê.
Phong thưởng
Theo "Chức quan chí" trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, tháng 5 năm 1429 khi Lê Thái Tổ phong mọi tước hầu (liệt hầu) cho các công thần, gồm có 9 bậc:
Thứ nhất: Huyện thượng hầu.
Thứ hai: Á thượng hầu.
Thứ ba: Hương thượng hầu.
Thứ tư: Đình thượng hầu.
Thứ năm: Huyện hầu.
Thứ sáu: Á hầu.
Thứ bảy: Quan nội hầu.
Thứ tám: Quan phục hầu.
Thứ chín: Trước phục hầu.
Bấy giờ có 93 người được phong tước và khắc biển công thần (Những người tên chữ nghiêng đều được cải sang họ Lê của vua, ở đây ghi nguyên họ những người đó)[4]:
Huyện Thượng hầu, 3 người: Phạm Vấn, Lê Sát, Phạm Văn Xảo.
Á Thượng hầu, 1 người: Lê Ngân.
Hương Thượng hầu, 3 người: Nguyễn Lý, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng.
Đình Thượng hầu, 14 người: Nguyễn Chích, Lê Văn An, Đinh Liệt, Lê Miễn, Đinh Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Trịnh Lỗi, Lê Như Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Bật.
Huyện hầu, 14 người: Bùi Bị, Lê Bì, Lê Phủ, Lê Náo, Lê Thụ, Lê Lôi, Trịnh Khả, Lê Bồi, Lê Lang, Nguyễn Xí, Lê Khuyển, Đỗ Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật;
Á hầu, 26 người: Lê Lạn, Nguyễn Trãi, v.v...;
Quan nội hầu, 16 người: Lê Thiệt, Lê Chương,...
Quan phục hầu, 12 người: Phạm Cuống, Lê Dao (Diêu)...
Thượng trí tự trước phục hầu, 4 người: Trịnh Khắc Phục, Lê Hài, v.v...
Các tướng tử trận khi khởi nghĩa chưa kết thúc như Lê Thạch, Lê Lai, Đinh Lễ, Lý Triện cũng đều được truy tặng.
Vai trò của hỏa lực trong Khởi nghĩa Lam Sơn
Trong một tiểu luận được viết vào sau năm 2000[5], một sử gia là Sun Laichen (Tôn Lai Thần) cho rằng, khi khởi nghĩa, Lê Lợi cũng học hỏi từ cách cầm quân của Trương Phụ, sử dụng hỏa khí rất hữu hiệu để đánh lại quân Minh và giành được những thắng lợi quan trọng, như trận đánh Vương Thông ngày 8/5/1426, quân Lam Sơn đánh bại 10 vạn quân Vương Thông, tiêu diệt trên 5 vạn, bắt sống 1 vạn, khiến "vô số" quân Minh chết đuối (Minh sử ghi từ 2 đến 3 vạn quân tử trận). Nếu như trước kia thành Đa Bang thất thủ là điểm khởi đầu cho thất bại của nhà Hồ, thì sau khi khi 8 vạn quân Lam Sơn vây hạ thành Xương Giang có 2000 quân cố thủ, quân Minh cũng không gượng dậy được. Trong số 15 vạn quân tiếp viện nhà Minh gửi sang, có tới 9 vạn quân bỏ mạng trong các trận đánh tiếp theo, dù rằng cả hai tướng chỉ huy, Liễu Thăng và Mộc Thạnh đều đã từng tham gia các chiến dịch chinh phạt An Nam, bản thân Liễu Thăng cũng tử trận.
Sun Laichen (Tôn Lai Thần) tỏ ra thiếu thuyết phục khi ông nêu ra luận điểm: Chiến thắng tại trận Tốt Động-Chúc Động khiến quân khởi nghĩa thu được rất nhiều khí cụ của quân Minh, trong đó có hỏa pháo và do đó biết cách sử dụng chiến cụ này, cũng như việc Thái Phúc- viên Đô đốc trấn thành Nghệ An đầu hàng quân Lam Sơn đã khiến người Việt học được từ chính viên tướng đầu hàng này cách chế súng máy để đánh lại kẻ thù đang chiếm đóng đất nước họ.
Trên thực tế, các chi tiết về Thái Phúc chỉ được đề cập rất giản lược trong sử Việt Nam. Trong bộ sử chính thức của Trung Quốc-tác phẩm Minh thực lục- cũng chỉ tường thuật là Thái Phúc bày cho Lam Sơn cách đánh thành, không kèm theo chi tiết "bày cách chế tạo súng". Và thuyết phục hơn cả, những tường thuật về diễn biến chiến trận tại thành Xương Giang trong Minh thực lục cũng nói quân Đại Việt hạ được thành sau khi họ tăng cường tấn công, thắng cả 3 trận chiến liên tiếp ngay dưới chân thành rồi sau đó dùng thang leo được vào thành. Vai trò của hỏa pháo chỉ được đề cập như 1 công cụ hỗ trợ bên cạnh máy bắn đá, tên có đầu tẩm dầu và câu liêm.
Ngoài ra, trong tiểu luận của mình, tác giả Sun Laichen cũng tỏ ra nhầm lẫn khi ông viết rằng "theo sách Đại Việt sử kí toàn thư thì trong trận đánh quyết định, thắng quân 10 vạn quân tiếp viện nhà Minh tại Xương Giang vào cuối năm 1427, quân Đại Việt đã thu được khối lượng chiến lợi phẩm gấp 2 lần so với những gì họ đã thu được sau trận Tốt Động-Chúc Động một năm trước đó (cuối năm 1426)." Trên thực tế, chi tiết này không có trong sách Toàn thư.
Bởi lẽ đó, sẽ là xác đáng khi cho rằng trong tiểu luận của mình, Sun Laichen đã đề ra những giả thiết có sức thuyết phục và hấp dẫn nhất định; tuy nhiên những giả thiết và luận điểm của ông không được hỗ trợ bởi những ghi chép chính xác và cụ thể được ghi lại trong chính sử.
Vì thế, vai trò của hỏa lực trong thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn vẫn là vấn đề cần được nghiên cứu và tranh luận thêm.
Chú thích
^ Theo Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, viết: "..., tháng giêng năm Mậu Tuất (1418), nhằm niên hiệu Vĩnh Lạc triều Minh thứ 16, [tờ 11a] Hoàng đế dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, phong chức Đại Tướng và chức Thừa Tướng cho: Lê Khang, Lê Luân, Lê Sao, Lê Lễ, Lê Hiêu, Lê Nhữ Tri, Lê Cố, Trịnh Thác, Trịnh Hối, Lê Thỏ, lê Lý, Lê Xa Lôi, Lê Khắc Phục, Lê Định, Lê Lãng, Lê Vấn, Lê Cuống, Lê Chiêm, Lê Đệ, Lê Khiêm, Lê Trinh, Lưu Đàm, Lê Lâm, Lê Nghiệm, Lê Văn Giáo, Trần Đạt, Trần Khai, Lê Cảnh Thọ, Phạm Lung, Phạm Quì, Lê Sát, Trương Lôi, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Lê Nỗ, Lê Liễu, Lê Nhữ Lãm, Lê Khả Lãng, Vũ Oai, Trịnh Vô, Lưu Hoạn, Trần Hốt, Đỗ Bí, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Lê Thận và Lê Văn An, [tờ 11b] chia nhau đốc suất đội quân Thiết đột ra đối địch với quân Minh. " Đại Việt thông sử
^ Những chiến thắng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc ta (phần 4), Trận Tốt Động - Chúc Động (5-7/11/1426)
^ Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, biết Thông đóng ở Ninh Kiều, định dùng một cánh quân cùng đánh tập hậu Lê Triện, Thông cầm đại quân tiến đằng trước, đêm đến nổ pháo hiệu thì hai cánh quân cùng đánh sáp vào. Nguyễn Xí bèn đặt phục binh rồi cho nổ pháo hiệu để lừa Thông
Lê Lợi lên ngôi vua
Lê Lợi sai Nguyễn Trãi thảo bài Bình Ngô đại cáo để bá cáo cho thiên hạ biết về việc đánh giặc Minh, được coi là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài thơ Nam quốc sơn hà.
Sau khi quân Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là vua Việt Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình không có công, lòng người không theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (vùng núi phía Tây), nhưng không thoát, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết. Một số nhà nghiên cứu nghi ngờ việc Cảo phải tự bỏ trốn mà cho rằng các tướng của Lê Lợi được lệnh sát hại Cảo, hoặc Cảo bị đe doạ phải bỏ trốn. Tuy nhiên, suy cho cùng Trần Cảo cũng chỉ là con bài chính trị để Lê Lợi đối phó với nhà Minh trong một giai đoạn cần thiết. Nhà Minh lấy lý do lập con cháu nhà Trần thực chất chỉ là cớ để đánh nhà Hồ.
Lê Lợi lên ngôi hoàng đế năm 1428, tức là vua Lê Thái tổ, chính thức dựng lên nhà Hậu Lê.
Phong thưởng
Theo "Chức quan chí" trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, tháng 5 năm 1429 khi Lê Thái Tổ phong mọi tước hầu (liệt hầu) cho các công thần, gồm có 9 bậc:
Thứ nhất: Huyện thượng hầu.
Thứ hai: Á thượng hầu.
Thứ ba: Hương thượng hầu.
Thứ tư: Đình thượng hầu.
Thứ năm: Huyện hầu.
Thứ sáu: Á hầu.
Thứ bảy: Quan nội hầu.
Thứ tám: Quan phục hầu.
Thứ chín: Trước phục hầu.
Bấy giờ có 93 người được phong tước và khắc biển công thần (Những người tên chữ nghiêng đều được cải sang họ Lê của vua, ở đây ghi nguyên họ những người đó)[4]:
Huyện Thượng hầu, 3 người: Phạm Vấn, Lê Sát, Phạm Văn Xảo.
Á Thượng hầu, 1 người: Lê Ngân.
Hương Thượng hầu, 3 người: Nguyễn Lý, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng.
Đình Thượng hầu, 14 người: Nguyễn Chích, Lê Văn An, Đinh Liệt, Lê Miễn, Đinh Lễ, Lê Chiến, Lê Khôi, Lê Đính, Lê Chuyết, Trịnh Lỗi, Lê Như Lãm, Lê Sao, Lê Kiệm, Lê Bật.
Huyện hầu, 14 người: Bùi Bị, Lê Bì, Lê Phủ, Lê Náo, Lê Thụ, Lê Lôi, Trịnh Khả, Lê Bồi, Lê Lang, Nguyễn Xí, Lê Khuyển, Đỗ Bí, Lê Quốc Trinh, Lê Bật;
Á hầu, 26 người: Lê Lạn, Nguyễn Trãi, v.v...;
Quan nội hầu, 16 người: Lê Thiệt, Lê Chương,...
Quan phục hầu, 12 người: Phạm Cuống, Lê Dao (Diêu)...
Thượng trí tự trước phục hầu, 4 người: Trịnh Khắc Phục, Lê Hài, v.v...
Các tướng tử trận khi khởi nghĩa chưa kết thúc như Lê Thạch, Lê Lai, Đinh Lễ, Lý Triện cũng đều được truy tặng.
Vai trò của hỏa lực trong Khởi nghĩa Lam Sơn
Trong một tiểu luận được viết vào sau năm 2000[5], một sử gia là Sun Laichen (Tôn Lai Thần) cho rằng, khi khởi nghĩa, Lê Lợi cũng học hỏi từ cách cầm quân của Trương Phụ, sử dụng hỏa khí rất hữu hiệu để đánh lại quân Minh và giành được những thắng lợi quan trọng, như trận đánh Vương Thông ngày 8/5/1426, quân Lam Sơn đánh bại 10 vạn quân Vương Thông, tiêu diệt trên 5 vạn, bắt sống 1 vạn, khiến "vô số" quân Minh chết đuối (Minh sử ghi từ 2 đến 3 vạn quân tử trận). Nếu như trước kia thành Đa Bang thất thủ là điểm khởi đầu cho thất bại của nhà Hồ, thì sau khi khi 8 vạn quân Lam Sơn vây hạ thành Xương Giang có 2000 quân cố thủ, quân Minh cũng không gượng dậy được. Trong số 15 vạn quân tiếp viện nhà Minh gửi sang, có tới 9 vạn quân bỏ mạng trong các trận đánh tiếp theo, dù rằng cả hai tướng chỉ huy, Liễu Thăng và Mộc Thạnh đều đã từng tham gia các chiến dịch chinh phạt An Nam, bản thân Liễu Thăng cũng tử trận.
Sun Laichen (Tôn Lai Thần) tỏ ra thiếu thuyết phục khi ông nêu ra luận điểm: Chiến thắng tại trận Tốt Động-Chúc Động khiến quân khởi nghĩa thu được rất nhiều khí cụ của quân Minh, trong đó có hỏa pháo và do đó biết cách sử dụng chiến cụ này, cũng như việc Thái Phúc- viên Đô đốc trấn thành Nghệ An đầu hàng quân Lam Sơn đã khiến người Việt học được từ chính viên tướng đầu hàng này cách chế súng máy để đánh lại kẻ thù đang chiếm đóng đất nước họ.
Trên thực tế, các chi tiết về Thái Phúc chỉ được đề cập rất giản lược trong sử Việt Nam. Trong bộ sử chính thức của Trung Quốc-tác phẩm Minh thực lục- cũng chỉ tường thuật là Thái Phúc bày cho Lam Sơn cách đánh thành, không kèm theo chi tiết "bày cách chế tạo súng". Và thuyết phục hơn cả, những tường thuật về diễn biến chiến trận tại thành Xương Giang trong Minh thực lục cũng nói quân Đại Việt hạ được thành sau khi họ tăng cường tấn công, thắng cả 3 trận chiến liên tiếp ngay dưới chân thành rồi sau đó dùng thang leo được vào thành. Vai trò của hỏa pháo chỉ được đề cập như 1 công cụ hỗ trợ bên cạnh máy bắn đá, tên có đầu tẩm dầu và câu liêm.
Ngoài ra, trong tiểu luận của mình, tác giả Sun Laichen cũng tỏ ra nhầm lẫn khi ông viết rằng "theo sách Đại Việt sử kí toàn thư thì trong trận đánh quyết định, thắng quân 10 vạn quân tiếp viện nhà Minh tại Xương Giang vào cuối năm 1427, quân Đại Việt đã thu được khối lượng chiến lợi phẩm gấp 2 lần so với những gì họ đã thu được sau trận Tốt Động-Chúc Động một năm trước đó (cuối năm 1426)." Trên thực tế, chi tiết này không có trong sách Toàn thư.
Bởi lẽ đó, sẽ là xác đáng khi cho rằng trong tiểu luận của mình, Sun Laichen đã đề ra những giả thiết có sức thuyết phục và hấp dẫn nhất định; tuy nhiên những giả thiết và luận điểm của ông không được hỗ trợ bởi những ghi chép chính xác và cụ thể được ghi lại trong chính sử.
Vì thế, vai trò của hỏa lực trong thắng lợi của khởi nghĩa Lam Sơn vẫn là vấn đề cần được nghiên cứu và tranh luận thêm.
Chú thích
^ Theo Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn, viết: "..., tháng giêng năm Mậu Tuất (1418), nhằm niên hiệu Vĩnh Lạc triều Minh thứ 16, [tờ 11a] Hoàng đế dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, phong chức Đại Tướng và chức Thừa Tướng cho: Lê Khang, Lê Luân, Lê Sao, Lê Lễ, Lê Hiêu, Lê Nhữ Tri, Lê Cố, Trịnh Thác, Trịnh Hối, Lê Thỏ, lê Lý, Lê Xa Lôi, Lê Khắc Phục, Lê Định, Lê Lãng, Lê Vấn, Lê Cuống, Lê Chiêm, Lê Đệ, Lê Khiêm, Lê Trinh, Lưu Đàm, Lê Lâm, Lê Nghiệm, Lê Văn Giáo, Trần Đạt, Trần Khai, Lê Cảnh Thọ, Phạm Lung, Phạm Quì, Lê Sát, Trương Lôi, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Lê Nỗ, Lê Liễu, Lê Nhữ Lãm, Lê Khả Lãng, Vũ Oai, Trịnh Vô, Lưu Hoạn, Trần Hốt, Đỗ Bí, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Lê Thận và Lê Văn An, [tờ 11b] chia nhau đốc suất đội quân Thiết đột ra đối địch với quân Minh. " Đại Việt thông sử
^ Những chiến thắng nổi tiếng trong lịch sử dân tộc ta (phần 4), Trận Tốt Động - Chúc Động (5-7/11/1426)
^ Nguyễn Xí bắt được thám tử của Vương Thông, biết Thông đóng ở Ninh Kiều, định dùng một cánh quân cùng đánh tập hậu Lê Triện, Thông cầm đại quân tiến đằng trước, đêm đến nổ pháo hiệu thì hai cánh quân cùng đánh sáp vào. Nguyễn Xí bèn đặt phục binh rồi cho nổ pháo hiệu để lừa Thông